Niết Bàn là gì ? Dư Niết Bàn và Vô Dư Niết Bàn là gì ?

Niết Bàn không phải là cái gì hoàn toàn có thể miêu tả bằng giấy trắng mực đen hay nhận thức bằng lý trí. Niết Bàn là pháp siêu thế ( lokuttara dhamma ), chỉ hoàn toàn có thể chứng ngộ bằng tuệ giác .
Không thể có sự hiểu biết Niết Bàn bằng lý trí thuần túy, vì Niết Bàn không phải là một yếu tố hoàn toàn có thể dùng luận lý để thấu đạt ( atakkavacara ). Lời dạy của Đức Phật trọn vẹn hài hòa và hợp lý. Trí thức hoàn toàn có thể lĩnh hội vừa đủ những Phật ngôn. Nhưng Niết Bàn, tiềm năng cứu cánh của Phật Giáo, vượt ra khỏi khoanh vùng phạm vi luận lý. Tuy nhiên, suy tưởng về những sắc thái tích cực của đời sống, ta sẽ đi tới Tóm lại hài hòa và hợp lý rằng, so sánh với hiện tượng kỳ lạ tùy thế, hữu vi, sanh khởi tùy duyên, hiện hữu do điều kiện kèm theo, phải có trạng thái bất tùy thế mà sự hiện hữu không tùy thuộc điều kiện kèm theo, vô sanh, bất tử và không phiền não .
Chú giải Túc sanh truyện ( Jataka ) có ghi rằng trong kiếp làm nhà tu sĩ khổ hạnh, Bồ Tát Sumedha có suy niệm như sau :

“Cũng như, mặc dầu có cảnh khốn khổ đau thương, Vẫn có trạng thái an vui hạnh phúc.

Cùng thế ấy, đã có hiện sinh, Tức nhiên phải có bất-hiện-sinh .
Cũng như mặc dầu có Sức Nóng không dễ chịu, Vẫn có Sức Lạnh dịu dàng êm ả thoáng mát .
Cùng thế ấy đã có sự hiện hữu của ba thứ lửa, Tức nhiên phải có Niết Bàn .
Cũng như, mặc dầu có tội lỗi xấu xa, Vẫn có cái tốt cái đẹp .
Cùng thế ấy, dầu quả thật có sự sanh Tức nhiên phải có sự không-sanh ” 342

1. Định nghĩa về niết bàn 

Danh từ Nam phạn ” Nibbana ” – Niết Bàn ( Bắc phạn : Nirvana ) gồm hai phần : ” ni ” và ” vana “. ” Ni ” là hình thức phủ định, không ; ” vana ” là dệt, hay ái dục. Ái dục này xem như sợi dây nối kiếp sống nầy với kiếp sống khác .
” Gọi là Niết Bàn vì Niết Bàn là sự dứt bỏ, sự tách rời – ‘ Ni ‘ – ra khỏi ái dục – ‘ Vana ‘, sự thèm khát nhục dục ” .
Ngày nào còn bị ái dục hay luyến ái trói buộc thì còn tạo thêm nghiệp mới, và những nghiệp mới này phải trổ quả dưới một hình thúc nào, trong vòng sanh – tử, tử-sanh vô cùng tận. Đến khi mọi hình thức ái dục chấm hết, năng lượng của nghiệp tái tạo cũng dứt, tức nhiên không còn tạo nghiệp nữa, và ta thành đạt Niết Bàn, thoát ra khỏi vòng sanh tử triền miên .
Quan niệm giải thoát trong Phật Giáo chính là trạng thái vượt qua khỏi vòng sanh tử triền miên vô tận, chứ không phải chỉ là sự trốn thoát ra khỏi tội lỗi, và âm ti .
Cũng có nơi lý giải Niết Bàn là sự dập tắt lửa tham ( lobha ), sân ( dosa ), và si ( moha ) .
Đức Phật dạy :
” Toàn thể trần gian nằm trong những ngọn lửa. Lửa gì đã nhúm lên những ngọn lửa ấy ? Chính lửa tham, lửa sân, lửa si ; chính lửa sanh, lửa già, lửa chết, lửa phiền não, lửa ta thán, lửa đau đớn, lửa khổ sở, lửa tuyệt vọng, đã nhúm lên những ngọn lửa ấy. ”
Nhận định theo một lối, Niết Bàn là sự dập tắt những ngọn lửa ấy. Nhưng không phải do đó mà hoàn toàn có thể nói rằng Niết Bàn chỉ là sự dập tắt những ngọn lửa. Nên phân biệt phương tiện đi lại và tiềm năng. Ở đây, dập tắt những ngọn lửa tham, sân và si, chỉ là phương tiện đi lại để đi đến Niết Bàn .

2. Niết Bàn có phải là hư vô không ?

Nếu chỉ vì ngũ quan không hề cảm nhận được mà ta quả quyết rằng Niết Bàn là hư vô, là không không, không có gì hết, thì cũng không bình thường như người mù Tóm lại rằng trong đời không có ánh sáng, chỉ vì không khi nào anh ta thấy ánh sáng. Trong ngụ ngôn ” Rùa và Cá ” được nhiều người biết, cá chỉ biết có nước nên khi nói với rùa, cá dõng dạc Tóm lại rằng không có đất, chính bới có những câu hỏi của cá đều được rùa vấn đáp là ” không ” .
Thuở xưa có một con cá. Cá chỉ biết trong nước và không biết gì ngoại trừ nước. Một hôm, cá mải mê lượn lờ bơi lội trong ao đầm quen thuộc như mọi hôm thì gặp lại chị Rùa. Hỏi ra thì hèn lâu rùa đi dạo trên đất liền. Cá hỏi : ” Chào chị rùa, chị đi đâu mà hèn lâu tôi không gặp ? ”
– Này chị cá, chào chị. Hôm rày tôi đi một vòng lên trên đất khô. Rùa vấn đáp .
– Đất khô à ! Cá lấy làm quá bất ngờ. Chị nói đất khô, vậy đất khô là gì ? Đất làm thế nào khô được ? Tôi chưa khi nào thấy cái gì mà khô. Đất khô chắc là không có gì hết .
Bẩm tánh ôn hòa, Rùa nhỏ nhẹ đáp :
– Được, tốt lắm, nếu chị muốn nghĩ như vậy cũng tốt. Không ai ngăn cản chị đâu. Tuy nhiên, chỗ mà tôi đi mấy hôm rày đất khô thật .
– Nầy chị rùa, đâu chị nói rõ lại coi. Đất khô mà chị nói ra làm thế nào, giống như cái gì ? Nó có khí ẩm không ?
– Không, đất khô không khí ẩm .
– Đất khô có thoáng mát và êm dịu, thoải mái và dễ chịu không ?
– Không, đất khô không thoáng mát và êm dịu dễ chịu và thoải mái .
– Đất khô trong suốt và ánh sáng rọi xuyên qua được không ?
– Không, đất khô không trong suốt và ánh sáng không rọi xuyên qua được .
– Đất khô có quyến rũ và dịu dàng êm ả để mình lượn lờ bơi lội trong ấy không ?
– Không, đất khô không mềm mại và mượt mà êm ả dịu dàng, và mình không hề lượn lờ bơi lội trong lòng đất .
– Đất có chuyển dời và trôi chảy thành dòng không ?
– Không, đất không vận động và di chuyển và trôi chảy thành dòng .
– Đất có nổi sóng và tan ra thành bọt kông ? Cá rất bực mình với loạt câu vấn đáp ” không, không, … ” của rùa .
– Không, đất không nổi sóng. Rùa thành thật vấn đáp .
Cá bỗng nhiên lộ vẻ hân hoan của người đắc thắng và vang lên :

– Thấy chưa, thật quả như tôi đã nói chớ gì nữa! Tôi đã bảo rằng đất khô của chị là hư vô, không có gì hết. Tôi hỏi và chị đã xác nhận rằng đất khô và không ẩm ướt, không mát mẻ, không êm dịu và không trong suốt, và ánh sáng không rọi xuyên qua được, không mềm mại và dễ chịu để mình có hể bơi lội trong ấy, đất cũng không di chuyển và trôi thành dòng, cũng không nổi sóng và cũng không tan rã thành bọt. Không phải gì hết thì có phải là hư vô không?

Rùa đáp :
– Được, tốt lắm. Nầy chị cá, nếu chị quả quyết rằng đất là hư vô, không có gì hết, thì chị cứ liên tục nghĩ như vậy. Thật ra, người nào đã biết nước và đất liền rồi sẽ nói rằng chị chỉ là con cá khù khờ, vì chị quả quyết rằng cái gì mà chị không biết là không có gì hết, hư vô. Nói là hư vô chính do chị không khi nào biết .
Đến đây, rùa bỏ cá ở lại một mình với ao đầm nhỏ bé, quay đầu lội đi và suy tưởng đến một cuộc viễn du khác trên đất khô, nơi mà cá tưởng tượng là hư vô …
Câu chuyện lý thú nầy ý niệm tuy rằng đã có sống trong nước và trên khô, rùa không lý giải cho cá thực chất thật sự của đất vì cá chỉ biết nước mà cá cũng không hề nhận thức được thế nào là đất liền, vì chỉ biết có nước thôi. Cũng thế ấy, tuy chư vị A La Hán đã từng biết thế nào là thời hạn và trạng thái siêu thế là sao, nhưng những ngài không hề dùng ngôn từ của trần gian để miêu tả trạng thái siêu thế mà người tại thế cũng không hề nhận thức trạng thái siêu thế là sao, bằng sự hiểu biết của trần gian .
Niết Bàn là hư vô, tức nhiên Niết Bàn phải trùng hợp với khoảng trống ( akasa ). Cả hai, Niết Bàn và khoảng trống, đều vĩnh cửu và không biến hóa. Không gian là vĩnh cửu vì nó là hư vô. Thật ra, Niết Bàn ở ngoài khoảng trống và thời hạn. Về sự độc lạ khoảng trống và Niết Bàn ta hoàn toàn có thể tóm tắt rằng, khoảng trống là Không, nhưng Niết Bàn là Có .
Khi đề cập đến những cảnh giới khác nhau mà chúng sanh hoàn toàn có thể sanh vào, Đức Phật có nhắc đến cảnh ” Vô Sở Hữu Xứ ” ( akincannayatana ), cảnh giới có ý niệm về hư không .
Niết Bàn là một Đạo Quả. Có thể chứng ngộ Niết Bàn như một đối tượng người tiêu dùng niềm tin ( vatthudhamma ). Sự kiện nầy rõ ràng chứng tỏ rằng Niết Bàn không phải là một trạng thái hư vô. Nếu Niết Bàn là hư vô, Đức Phật đã không miêu tả bằng những danh từ như ” Vô Tận ” ( Ananta ), ” Bất Tùy Thể ” ( Asamkhata ), ” Vô Song ” ( Anupameya ), ” Tối Thượng ” ( Anuttara ), ” Tối Cao ” ( Para ), ” Vượt Ra Ngoài ” ( Pàra ), ” Chỗ Nương Tựa Tối Thượng ” ( Paràyana ), ” Châu Toàn ” ( Tana ), ” An Toàn ” ( Khema ), ” Hạnh Phúc ” ( Siva ), ” Duy Nhất ” ( Kevala ), ” Bất Khả Diệt ” ( Akkhara ), ” Tuyệt Đối Trong Sạch ” ( Visuddha ), ” Siêu Thế ” ( Lokuttara ), ” Vĩnh Cửu ” ( Amata ), ” Giải Thoát ” ( Mutti ), ” Vắng Lặng ” ( Santi ) v.v…
Trong kinh Udana và Itivuttka, Đức Phật đề cập đến Niết Bàn như sau :
– ” Nầy chư tỳ khưu, có một trạng thái không sanh ( ajata ), không khởi phát ( abhuta ), không được cấu trúc ( akata ) và không tùy thế ( asamkara ). Nếu không có trạng thái không sanh, không khởi phát, không cấu trúc, và không tùy thế, ắt không hề có lối thoát cho cái có sanh, có khởi phát, có cấu trúc, và tùy thế ( hữu vi ) .
Do sự kiện có trạng thái không sanh, không khởi phát, không cấu trúc, và không tùy thế, nên mới có lối thoát cho cái có sanh, có khởi phát, có cấu trúc, và tùy thế “. 343
Kinh Itivuttaka ghi :
” Cái có sanh, trở thành, khởi phát, được cấu trúc, và như thế là không bền vững và kiên cố, trái lại phải chịu sanh và tử. Một sự cấu thành, một ổ bệnh hoạn, mỏng mảnh .
Một sự sống nhờ vật thực, một sự trở thành, Không đáng để cho ta thú vị trong đó chút nào. Thoát ra ngoài trạng thái ấy, dẫn đến thực tiễn, ngoài khoanh vùng phạm vi luận lý, vững chắc .
Không sanh, không khởi phát, không phiền não. Con đường không ô nhiễm .
Con đường chấm hết mọi thống khổ, thoát khỏi lo âu. Để đến tĩnh mịch và niềm hạnh phúc. ” 344
Vậy, Niết Bàn không phải là hư vô. Cũng không phải chỉ là một sự chấm hết. Niết Bàn không phải là thế nào thì ta hoàn toàn có thể nói một cách quả quyết. Nhưng nếu miêu tả đúng mực Niết Bàn là thế nào thì ngôn từ của trần gian không hề thích hợp, vì Niết Bàn là tuyệt đối, duy nhất, phải tự mình chứng ngộ ( paccatam veditabbo ) .

3. Dư Niết Bàn và Vô Dư Niết Bàn.

Khi đề cập đến Niết Bàn, kinh sách thường nhắc đến Vô Dư và Hữu Dư Niết Bàn ( Anupadisesa và Sopadisesa Nibbana Dhatu ). 345
Trên trong thực tiễn, không phải có hai loại Niết Bàn mà có hai hình thức Đạo Quả Niết Bàn. Hai danh từ khác nhau để chỉ hai hình thức chứng nghiệm : một trước khi chết và một sau .
Đạo Quả Niết Bàn hoàn toàn có thể thành tựu trong kiếp sống hiện tại. Không có điểm nào trong toàn thể Giáo Lý của Đức Phật dạy rằng tiềm năng cứu cánh chỉ hoàn toàn có thể thành đạt sau khi chết. Đây là sự độc lạ giữa ý niệm về Niết Bàn của người Phật tử và ý niệm của người không phải Phật tử, về một cảnh trời vĩnh cửu, chỉ hoàn toàn có thể đạt được sau kiếp sống .
Khi Đạo Quả Niết Bàn được thành tựu trong kiếp sống hiện tiền nghĩa là trong lúc còn mang thân ngũ uẩn, thì gọi là ” Hữu Dư Niết Bàn ” ( Sopadisesa Nibbana Dhatu ) .
Lúc bỏ xác thân, vị A La Hán đạt Đại Niết Bàn, không còn vật chất, chừng ấy gọi là ” Vô Dư Niết Bàn ” ( Anupadisesa Nibbana Dhatu ) .
Một vị phật hay một vị A La Hán, lúc còn tại tiền thọ hưởng Hửu Dư Niết Bàn, và không còn tạo nghiệp mới nữa. Nhưng những nhân lành hay dữ đã tạo trong dĩ vãng vẫn còn trổ quả tới lúc danh và sắc tan rã .
Trong kinh Itivuttaka, Đức Phật dạy :
” Có hai hình thức chứng nghiệm Niết Bàn là chứng nghiệm Niết Bàn trong lúc còn mang thân và chứng nghiệm Niết Bàn lúc không còn thân .
” Nầy chư Tỳ khưu, chứng nghiệm Niết Bàn trong lúc còn mang thân là gì ? Là nơi đây, nầy chư Tỳ khưu, một thầy Tỳ khưu đắc Quả A La Hán, đã tận diệt mọi ô nhiễm, đã sống đời sống thiêng liêng hùng vĩ, đã làm những việc cần phải làm, đã bỏ gánh nặng xuống, đã thành đạt tiềm năng, đã tận diệt mọi trói buộc của đời sống, một thầy Tỳ khưu hiểu biết chân chánh và đã được giải thoát. Ngũ quan của thầy vẫn còn, và vì chưa xa lìa hẳn ngũ quan, thầy còn thọ hưởng những quả lành và gặt hái những quả dữ. Sự chấm hết tham, sân, si, của thầy tỳ khưu ấy gọi là chứng nghiệm Niết Bàn trong lúc còn mang thân ngũ uẩn ” .
” Nầy chư Tỳ khưu, chứng nghiệm Niết Bàn trong lúc không còn thân ngũ uẩn là gì ?
” Nơi đây, nầy chư Tỳ khưu, một thầy tỳ khưu đắc Quả A La Hán, đã tận diệt mọi ô nhiễm, đã sống đời sống thiêng liêng hùng vĩ, đã làm những việc cần phải làm, đã bỏ gánh nặng xuống, đã thành đạt tiềm năng, đã tận diệt mọi trói buộc của đời sống, một thầy Tỳ khưu hiểu biết chân chánh và đã được giải thoát. Trong chính kiếp sống ấy, thầy không còn thú vị với những cảm xúc của thân nữa, thầy thoáng mát. Đó là chứng nghiệm Niết Bàn trong lúc không còn thân ngũ uẩn. ” 346

Chú giải thuật ngữ:

342. Warren, Buddhism in Translations, trang 6 .
343. Theo bản Chú giải, bốn danh từ đó đồng nghĩa tương quan. Ajata có nghĩa là phát sanh mà không tùy thuộc nguyên do hay điều kiện kèm theo ( hetupaccaya ). Abhuta ( sát nghĩa là ” không trở thành ” ) có nghĩa là không phát sanh. Bởi không phát sanh từ một nguyên do, và không trở thành, tức nhiên không cấu trúc ( akata ). Trở thành và phát sanh là đặc tánh của những vật tùy thế — hiện hữu do nguyên do hay điều kiện kèm theo, tùy duyên — như tâm và vật chất, danh và sắc. Niết Bàn trái lại, không tùy thuộc nguyên do hay điều kiện kèm theo để có, là bất tùy thế ( asamkhata ) .
Xem Woodward, Verses of Uplift, trang 98 – ” As it was said “, trang 142 .
344. Woodward, ” As it was said “, trang 142

345. Sa = với; upadi = ngũ uẩn, tức danh sắc; sesa = còn lại. Ngũ uẩn được gọi là “upadi” bởi vì bị ái dục và vô minh bám chặt.

346. Bởi vì vị ấy không còn tái sanh .

Nguồn: Đức Phật và Phật Pháp – Đại đức Narada Maha Thera (Được Phạm Kim Khánh dịch)

Source: https://thomaygiat.com
Category : Dân Dụng

Niết Bàn là gì ? Dư Niết Bàn và Vô Dư Niết Bàn là gì ?

Bài viết liên quan
  • Sửa bình nóng lạnh Kangaroo

  • Sửa bình nóng lạnh Kangaroo Bạn đang sở hữu một chiếc bình nóng lạnh Kangaroo tại gia đình mình và bình nóng lạnh nhà bạn…

  • Sửa bình nóng lạnh Electrolux

  • Sửa bình nóng lạnh Electrolux Quý khách hàng tại Hà Nội đang sử đụng bình nóng lạnh Electrolux và có nhu cầu muốn sử dụng…

Hotline 24/7: O984.666.352
Alternate Text Gọi ngay