Nguyễn Trãi – Wikipedia tiếng Việt
Nguyễn Trãi (chữ Hán: 阮廌, 1380 – 19 tháng 9 năm 1442), hiệu là Ức Trai (抑齋), là một nhà chính trị, nhà văn, người đã tham gia tích cực Khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại sự xâm lược của nhà Minh (Trung Quốc) với Đại Việt. Khi cuộc khởi nghĩa thành công vào năm 1428, Nguyễn Trãi trở thành một trong những khai quốc công thần của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê trong Lịch sử Việt Nam.[2] Ông được UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hóa thế giới”[3] và là 1 trong 14 anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam.[4]
Nguyễn Trãi có cha là Nguyễn Phi Khanh, con rể của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán nhà Trần. Khi nhà Trần bị Hồ Quý Ly lật đổ lập nên nhà Hồ, Nguyễn Trãi tham gia dự thi, thi đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi làm quan dưới triều Hồ với chức Ngự sử đài chính chưởng. Khi nhà Minh xâm lược, cha ông là Nguyễn Phi Khanh bị bắt giải về Trung Quốc. Sau khi nước Đại Ngu rơi vào sự cai trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại sự thống trị của nhà Minh. Ông trở thành một trong những mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn, tham gia xây dựng chiến lược cũng như giúp Lê Lợi soạn thảo các văn thư ngoại giao với quân Minh.[5] Ông tiếp tục phục vụ dưới triều đại vua Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông với chức vụ Nhập nội hành khiển và Thừa chỉ (tức Hàn lâm viện Thừa chỉ học sĩ[6] hay Tuyên phụng đại phu Hàn lâm Thừa chỉ[7]). Lần thăng chức sau đó, Nguyễn Trãi được phong Triều liệt đại phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ Thượng thư kiêm hành Khu mật viện sự.[8]
Năm 1442, toàn thể mái ấm gia đình Nguyễn Trãi bị phán quyết tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu ân xá cho ông. [ 5 ] Nguyễn Trãi là một nhà văn hóa lớn, có góp phần to lớn vào sự tăng trưởng của văn học và tư tưởng Nước Ta. Ông nằm trong list 14 anh hùng dân tộc bản địa Nước Ta .
Mục Chính
- Nguồn gốc và giáo dục[sửa|sửa mã nguồn]
- Vụ án Lệ Chi Viên[sửa|sửa mã nguồn]
- Di lụy và phục sinh[sửa|sửa mã nguồn]
- Tư tưởng Nguyễn Trãi[sửa|sửa mã nguồn]
- Sự nghiệp văn chương[sửa|sửa mã nguồn]
- Chú thích và tìm hiểu thêm[sửa|sửa mã nguồn]
- Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Nguồn gốc và giáo dục[sửa|sửa mã nguồn]
Nguồn gốc và giáo dục[sửa|sửa mã nguồn]
Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, người làng Nhị Khê (nay là xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, thủ đô Hà Nội), là con của Nguyễn Phi Khanh, tiến sĩ cuối đời Trần, cháu ngoại tư đồ Chương Túc Quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán.[2] Sách giáo khoa Ngữ văn 10 (Việt Nam) cho rằng gốc gác ông là ở làng Chi Nhạn, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương).[9]
Bạn đang đọc: Nguyễn Trãi – Wikipedia tiếng Việt
Dưới thời nhà Trần, cha ông là Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Hán Anh được Tư đồ Trần Nguyên Đán mời về dạy hai người con gái, con trưởng tên là Thái, con thứ tên Thai. Nguyễn Phi Khanh dạy Thái, nhân gần gũi, đã làm thơ quốc ngữ khêu gợi Thái, có quan hệ nam nữ với Thái, Hán Anh cũng làm thơ quốc ngữ bắt chước Phi Khanh. Rốt cuộc Thái có thai, Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Hán Anh bỏ trốn, đến ngày Thái đẻ, Trần Nguyên Đán mới hỏi Nguyễn Phi Khanh ở đâu, người nhà bảo Nguyễn Phi Khanh đã trốn đi. Trần Nguyên Đán cho gọi hai người về gả con gái cho Nguyễn Phi Khanh, sinh ra Nguyễn Trãi. Sau đó Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Hán Anh thi đỗ, nhưng vua Trần Nghệ Tông bỏ không dùng, cho rằng: “Bọn chúng có vợ giàu sang, như thế là kẻ dưới mà dám phạm thượng”.[10]
Theo nhà nghiên cứu sử văn minh Trần Huy Liệu, Nguyễn Phi Khanh và Trần Thị Thái có với nhau 5 người con theo thứ tự là Nguyễn Trãi, Nguyễn Phi Báo, Nguyễn Phi Ly, Nguyễn Phi Bằng và Nguyễn Phi Hùng. [ 11 ] Mẹ mất sớm khi Nguyễn Trãi mới 6 tuổi, bố ông ở rể ở nhà ngoại, bạn bè Nguyễn Trãi ở nhà ông ngoại Trần Nguyên Đán, đến năm 1390 thì Trần Nguyên Đán mất. Nguyễn Phi Khanh phải một mình nuôi những con. [ 12 ]
Thời kì làm quan cho nhà Hồ và quân Minh xâm lược Đại Việt[sửa|sửa mã nguồn]
Ông ngoại của Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Đán, là một tôn thất, lại là đại thần triều Trần, không chống lại Hồ Quý Ly mà gửi gắm con cháu mình cho Hồ Quý Ly. Trần Nguyên Đán đem con là Mộng Dữ ký thác cho Quý Ly. Hồ Quý Ly đem công chúa gả cho. Sau khi lên làm hoàng đế, Hồ Quý Ly cho Mộng Dữ làm Đông Cung phán thủ, em của Mộng Dữ là Trần Thúc Dao và Trần Thúc Quỳnh đều làm tướng quân.[10] Thượng hoàng Nghệ Tông thường ngự đến nhà riêng của ông để thăm bệnh và hỏi việc sau này. Nhưng Nguyên Đán đều không nói gì, chỉ thưa: “Xin bệ hạ kính nước Minh như cha, yêu Chiêm Thành như con, thì nước nhà vô sự. Tôi dầu chết cũng được bất hủ”. Về sau, con cháu Trần Nguyên Đán đều được Hồ Quý Ly bảo toàn.[13]
Năm 1400, Hồ Quý Ly phế truất vua Trần Thiếu Đế, lật đổ nhà Trần, thành lập nhà Hồ. Cùng năm, nhà Hồ mở khoa thi Nho học, Nguyễn Trãi tham dự và đỗ Thái học sinh, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: Quý Ly thi Thái học sinh, cho bọn Lưu Thúc Kiệm 20 người đỗ; Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên… đều dự đỗ.[14] Sau đó, ông được làm Ngự sử đài Chính chưởng. Nguyễn Phi Khanh năm 1401 được Hồ Hán Thương lấy làm Hàn lâm viện học sĩ.[15][16]
Năm 1407, Minh Thành Tổ phái Trương Phụ đem quân xâm lược nước Đại Ngu, nhà Hồ kháng chiến thất bại, Hồ Quý Ly cùng nhiều triều thần bị bắt và bị đem về Trung Quốc. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, nhiều người kinh lộ không ủng hộ nhà Hồ nên hầu hết đầu hàng quân Minh. Cha ông là Nguyễn Phi Khanh cùng một số quan lại nhà Hồ đã đầu hàng trước đó. Sách Đại Việt sử ký toàn thư không chép gì về Nguyễn Trãi ở thời gian này. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: Ngày 12, đầu mục bộ hạ của Mạc Thúy là bọn Nguyễn Như Khanh bắt được Hán Thương và thái tử Nhuế ở núi Cao Vọng. Bọn Hồ Đỗ, Phạm Lục Ngạn, Nguyễn Ngạn Quang, Đoàn Bồng đều bị bắt. Còn bọn Trần Nhật Chiêu, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Cẩn, Đỗ Mãn đã hàng quân Minh trước rồi.[13][17]
Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí, sau cuộc Chiến tranh Minh – Đại Ngu, Đại Ngu rơi vào ách Minh thuộc. Lúc này, Nguyễn Trãi đang chạy trốn để thoát khỏi sự truy bắt của quân Minh. Tổng binh Trương Phụ ép Nguyễn Phi Khanh viết thư gọi ông, ông bất đắc dĩ phải ra hàng. Trương Phụ biết ông không chịu ra làm quan hợp tác với quân Minh, muốn giết đi, nhưng Thượng thư Hoàng Phúc thấy mặt mũi khác thường, tha cho và giam lỏng ở thành Đông Quan.[18]
Ngoài ra, bạn bè đàng ngoại của Nguyễn Trãi, những con của ông ngoại Trần Nguyên Đán, cậu ruột của Nguyễn Trãi là Trần Thúc Dao, Trần Nhật Chiêu cũng đầu hàng quân Minh, được phong tước, cho giữ đất Diễn Châu. Đến năm 1408, nhà Hậu Trần nổi lên đánh quân Minh, khi đến Nghệ An đã giết Trần Thúc Dao, Trần Nhật Chiêu cùng 600 người khác. [ 19 ]
Mười năm phiêu dạt[sửa|sửa mã nguồn]
Cuộc đời Nguyễn Trãi từ sau năm 1407 đến khi vào yết kiến Lê Lợi ở Lỗi Giang để tham gia khởi nghĩa Lam Sơn vẫn còn là một ẩn số. Cho tới nay, chưa thấy được những tài liệu chính xác, đầy đủ về Nguyễn Trãi trong thời kỳ đó. Sử sách không chép hoặc chép không đầy đủ, thống nhất và bản thân Nguyễn Trãi cũng không ghi lại điều gì cụ thể.[20] Nguyễn Trãi nói nhiều đến thập niên phiêu chuyển (mười năm phiêu dạt) lênh đênh ở nơi chân trời góc biển trong một số văn thơ của ông, áng chừng là để chỉ khoảng thời gian này. Tất nhiên con số mười năm chỉ mang tính tương đối.[21]
Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn[sửa|sửa mã nguồn]
Yết kiến ở Lỗi Giang[sửa|sửa mã nguồn]
Các tài liệu Lịch triều hiến chương loại chí, Ức Trai thi tập, bài thơ Minh Lương của Lê Thánh Tông, Chế văn của vua Tương Dực Đế, Kiến văn tiểu lục, Việt sử thông giám cương mục, Sơn Nam lịch triều đăng khoa khảo và Lịch triều đăng khoa bi khảo chép rằng Nguyễn Trãi yết kiến Lê Lợi tại địa điểm Lỗi Giang, nhưng không ghi năm nào.[25]
Tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn[sửa|sửa mã nguồn]
Các sử gia Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bích đã dùng cuốn Tang thương ngẫu lục, cuốn sách mang tính truyền kỳ trong dân gian để nghiên cứu. Sách chép rằng Nguyễn Trãi đề xuất một kế nhằm tuyên truyền thanh thế cho nghĩa quân Lam Sơn. Ông dùng nước cơm trộn mật[34] (hoặc mỡ) viết vào lá cây tám chữ Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần (黎利為君, 阮廌為臣),[35] nghĩa là Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi, với ý đồ khiến kiến ăn mỡ khoét thành chữ trên mặt lá, rồi lá theo dòng nước trôi đi các ngả như tin báo từ trên trời xuống. Tuy vậy, một số tướng lĩnh khác như Lê Sát, Phạm Vấn, Lê Thụ bất bình vì cho rằng Nguyễn Trãi quá cao ngạo và coi thường họ, những người đã chịu nhiều lao khổ từ khi cuộc khởi nghĩa còn trong trứng nước. Đinh Liệt hòa giải mâu thuẫn bằng cách đề nghị Nguyễn Trãi đổi lại thành Lê Lợi vi quân, bách tính vi thần (黎利為君, 百姓為 臣), nghĩa là Lê Lợi làm vua, trăm họ làm tôi. Thế là tin Lam Sơn khởi nghĩa truyền đi khắp nơi, khiến cho mọi người hết sức tin tưởng vào tương lai của nghĩa quân.[36]
Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, Lam Sơn thực lục, từ năm 1418 cho đến năm 1426 sách không chép gì về Nguyễn Trãi.[37]
Đầu năm 1427, Lê Lợi phong cho Hàn lâm viện thừa chỉ học sĩ Nguyễn Trãi làm Triều liệt Đại phu Nhập nội Hành khiển Lại bộ Thượng thư, kiêm chức Hành Khu mật viện sự, đây là lần xuất hiện đầu tiên của sách Đại Việt sử ký toàn thư về Nguyễn Trãi khi ông tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn. Lê Lợi sai dựng một tòa lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề, trên bờ sông Hồng, cao ngang tháp Báo Thiên, hàng ngày ngồi trên lầu trông vào thành Đông Quan xem xét hoạt động của quân Minh; Nguyễn Trãi ngồi hầu ở ngay tầng dưới để bàn luận quân cơ và thảo thư từ đi lại.[38] Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép nguyên văn như sau:
“ | Bấy giờ, vua dựng lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề trên bờ sông Lô (Khi ấy, có hai cây bồ đề ở trong dinh, nên gọi là dinh Bồ Đề), cao bằng tháp Báo Thiên, hằng ngày vua ngự trên lầu nhìn vào thành để quan sát mọi hành vi của giặc, cho Trãi ngồi hầu ở tầng hai, nhận lệnh soạn thảo thư từ qua lại. | ” |
— Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ |
Sách Đại Việt thông sử chép nguyên văn như sau:
Phong cho viên Hàn Lâm Viện Thừa chỉ học sĩ là Nguyễn Trãi chức “Triều liệt đại phu nhập nội hành khiển, Lại bộ Thượng thư, kiêm Cơ Mật viện”. Hoàng đế sai dựng một cái lầu mấy tầng trong dinh Bồ Đề, hằng ngày ngài ngự tại từng lầu trên cùng, để trông vào thành bên địch, cho Nguyễn Trãi ngồi ở tầng lầu dưới, để bàn luận cơ mưu hầu ngài, và thảo những thư từ gởi tới.[39]
Tại đây, Nguyễn Trãi đã viết hàng chục bức thư gửi vào thành Đông Quan chiêu dụ Vương Thông, gửi đi Nghệ An chiêu dụ Thái Phúc cũng như dụ hàng những tướng lĩnh nhà Minh ở Tân Bình, Thuận Hóa và 1 số ít thành trì khác. Kết quả đạt được rất khả quan : những thành Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa ra số 1 năm 1427. [ 40 ] Bản thân Nguyễn Trãi cũng đã từng cùng với viên chỉ huy họ Tăng vào dụ hàng thành Tam Giang, khiến Chỉ huy sứ thành này là Lưu Thanh ra hàng vào khoảng chừng tháng 4 năm 1427. Ông cũng đã đem thân vào dụ hàng thành Đông Quan năm lần. [ 41 ] Quân Minh ở Giao Chỉ càng bị cô lập nhanh gọn, chỉ còn cố thủ được ở 1 số ít thành như Đông Quan, Cổ Lộng, Tây Đô … mà thôi. [ 42 ]Cuối năm 1427, Minh Tuyên Tông xuống chiếu điều binh cứu viện Vương Thông, sai Liễu Thăng đem 10 vạn quân từ Quảng Tây, Mộc Thạnh đem 5 vạn quân từ Vân Nam, cùng tiến quân sang Nước Ta. Với trận Chi Lăng – Xương Giang, hai đạo viện binh hỗ trợ của nhà Minh với số lượng lên tới hơn 10 vạn quân đã bị quân Lam Sơn tiêu diệt trọn vẹn. [ 43 ]
Tháng 11 năm 1427, tổng binh Vương Thông và nội quan Sơn Thọ nhà Minh sai viên thiên hộ họ Hạ mang thư đến giảng hòa, xin mở cho đường về. Lê Lợi chấp nhận, lại gởi tặng thổ sản và hải sản. Dẫu vậy, Vương Thông vấn do dự, chưa quyết, đem quân ra đánh, bị nghĩa quân đánh bại, suýt bị bắt sống.[44] Ngày 22, tháng 11, năm 1427 (Đinh Mùi), Vương Thông và Lê Lợi tiến hành Hội thề Đông Quan ở cửa nam thành, hẹn đến ngày 12, tháng 12 năm Đinh Mùi sẽ rút hết quân về nước. Lúc bấy giờ, một số tướng sĩ đến yết kiến và khuyên Lê Lợi nên đánh thành Đông Quan, giết hết quân Minh để trả thù cho sự bạo ngược mà người Minh đã gây nên ở Đại Việt. Nhưng ý kiến của Nguyễn Trãi thì lại khác. Sách Đại Việt sử ký Bản kỉ thực lục, quyển X, tờ 44a-44b ghi rằng:
“ |
Duy có hành khiển Nguyễn Trãi ở nơi tham mưu, được xem thư bọc sáp của [Vương] Thông gửi về nước nói “Chớ tham chỗ đất một góc mà làm nhọc quân đi muôn dặm; giả sử dùng quân được như số quân đi đánh khi đầu, lại được sáu, bảy, tám đại tướng như bọn Trương Phụ thì mới có thể đánh được; tuy nhiên có đánh được cũng không thể giữ được”, nên biết rõ thế mạnh yếu của giặc, mới chuyên chủ mặt chủ hòa. Vua [Lê Thái Tổ] nghe theo và hạ lệnh cho các quân giải vây lui ra.[44][45] |
” |
— Đại Việt sử ký toàn thư |
Lê Lợi nghe theo cho quân giải vây rút ra. Khi quân Minh sắp rút đi, 1 số ít tướng khuyên Lê Lợi nên đánh thêm một trận để cho giặc không dám sang nữa nhưng Lê Lợi không đồng ý chấp thuận, quân Minh rút về nước bảo đảm an toàn. Năm 1428, nhà Hậu Lê hình thành. [ 46 ]
Vua Lê Thái Tổ có 2 đợt phong thưởng chính. Lần một vào tháng 2, năm Thuận Thiên thứ nhất ( 1428 ) cho những Hỏa thủ và quân nhân Thiết đột ở Lũng Nhai, gồm 121 người. Lần 2 vào tháng 5, năm Thuận Thiên thứ 2 ( 1429 ), ban biển ngạch công thần cho 93 viên. Đợt phong thưởng lần 2 có tên của Nguyễn Trãi. [ 47 ]
Vào tháng 3, năm 1428, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: Đại hội các tướng và các quan văn võ để định công, ban thưởng, xét công cao thấp mà định thứ bậc. Lấy Thừa chỉ Nguyễn Trãi làm Quan phục hầu; Tư đồ Trần Hãn làm Tả tướng quốc; Khu mật đại sứ Phạm Văn Xảo làm Thái bảo; đều được ban quốc tính.
Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1429, Lê Thái Tổ sai khắc biển công thần, ông được phong tước Á hầu.[48]
Phong thưởng có tổng thể chín bậc, Thứ nhất : Huyện thượng hầu ; Thứ hai : Á thượng hầu ; Thứ ba : Hương thượng hầu ; Thứ tư : Đình thượng hầu ; Thứ năm : Huyện hầu ; Thứ sáu : Á hầu ; Thứ bảy : Quan nội hầu ; Thứ tám : Quan phục hầu ; Thứ chín : Trước phục hầu. Nguyễn Trãi ở bậc thứ 6 .
Văn thần triều Lê[sửa|sửa mã nguồn]
Triều vua Lê Thái Tổ[sửa|sửa mã nguồn]
Đầu năm 1428, ngay cả khi chưa chính thức lên ngôi vua, Bình Định Vương đã đại hội những tướng và những quan văn võ, định công ban thưởng. Ngày 29 tháng 4 năm 1428, Lê Lợi làm lễ lên ngôi ở điện Kính Thiên tại Đông Kinh, đại xá thiên hạ, giao cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo để bố cáo với cả nước về việc chiến thắng quân Minh. [ 49 ]
Năm 1433, Lê Thái Tổ mất, an táng ở Vĩnh Lăng tại Lam Sơn. Lê Thái Tông xuống sắc chỉ sai Nguyễn Trãi, với tư cách là Vinh lộc Đại phu Nhập nội Hành khiển tri Tam quán sự, soạn văn bia Vĩnh Lăng thần đạo bi.[50]
Triều vua Lê Thái Tông[sửa|sửa mã nguồn]
Ngày 21 tháng 2 năm 1434, Lê Thái Tông bổ nhiệm 156 quan viên lớn nhỏ, trong số đó có Nguyễn Trãi.[51][52] Năm 1435, Nguyễn Trãi dâng lên vua sách Dư địa chí, trong đó ông ghi chép khá đầy đủ về bờ cõi hành chính nước Đại Việt thời đó.[53]
Tháng 5, năm 1434, Nguyễn Trãi đang giữ chức Hành khiển, soạn xong tờ tâu để Nguyễn Tông Trụ mang sang đưa lên vua Minh, bị Nội mật viện Nguyễn Thúc Huệ, Học sĩ Lê Cảnh Xước, Đại Tư đồ Lê Sát và Đô đốc Phạm Vấn phản đối và trách cứ và đòi thay thế sửa chữa. Nguyễn Trãi nhất quyết giữ chủ ý của mình, ở đầu cuối Lê Thái Tông vẫn theo như bản tâu của ông, không đổi khác. [ 54 ] Tháng 12, năm 1434, Nguyễn Trãi cùng những đại thần theo vua Lê Thái Tông làm lễ rước thần chủ mới của Thái Tổ và Quốc thái mẫu vào thờ ở Thái miếu. [ 55 ]Năm 1435, tháng 6, Đại Tư đồ Lê Sát tiến cử Nguyễn Trãi và một số ít viên quan khác vào dạy học cho Lê Thái Tông ở tòa Kinh Diên nhưng vua Lê Thái Tông không đồng ý chấp thuận. [ 56 ] [ 57 ]
Trong vụ án bảy tên trộm vào tháng 3 năm 1435, ông tranh cãi với Lê Sát và Lê Ngân về việc xử lý bảy tên ăn trộm ít tuổi can tội tái phạm. Ông khuyên Lê Thái Tông nên nhân nghĩa: “Pháp lệnh không bằng nhân nghĩa cũng rõ lắm rồi. Nay một lúc giết bảy người, e không phải là hành vi của bậc đại đức”. Nhưng khi Lê Sát và Lê Ngân đề nghị ông dùng nhân nghĩa cảm hóa kẻ trộm thì ông từ chối. Cuối cùng xử chém 2 tên, còn lại thì xử đi đày.[58]
Trước đây, Lê Thái Tổ đã sai Nguyễn Trãi định ra quy chế mũ áo nhưng chưa kịp thi hành. Tháng 2 năm 1437, vua Lê Thái Tông lại sai Nguyễn Trãi cùng với Lương Đăng sửa định nhã nhạc và quy chế lễ nghi trong triều đình. Nguyễn Trãi đã dâng lên bản vẽ khánh đá và biểu tâu, vua Thái Tông khen ngợi và tiếp nhận sai thợ đá huyện Giáp Sơn lấy đá ở núi Kính Chủ để làm.[58] Nhưng đến tháng 5, năm 1437, Lương Đăng dâng sớ thư về quy chế có nhiều ý kiến khác với Nguyễn Trãi ở những chỗ bàn về số lượng, trọng lượng các nhạc khí. Vua Thái Tông lựa chọn đề nghị của Lương Đăng, nên Nguyễn Trãi tâu xin trả lại việc đã được giao phó.[58] Tháng 11 năm 1437, vua Lê Thái Tông cho ban bố các nghi thức lễ đại triều do Lương Đăng soạn định với triều đình, Nguyễn Trãi cùng một nhóm văn thần như Đào Công Soạn, Nguyễn Văn Huyến, Nguyễn Liễu, Nguyễn Truyền dâng sớ phản đối, nhưng không có kết quả. Cũng vì việc đó, Nguyễn Liễu bị “thích chữ vào mặt, đày ra châu xa”.
Khoảng cuối năm 1437, đầu năm 1438, Nguyễn Trãi xin về hưu trí ở Côn Sơn [ 59 ] – nơi trước kia từng là thái ấp của ông ngoại ông – chỉ đôi lúc mới vâng mệnh vào chầu vua .
Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí, sau khi không hợp với Lương Đăng về việc nhạc, ông đã xin về quê hưu trí. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cũng không chép ông làm gì sau thời gian này, đến năm 1442, sách mới chép việc ông mời vua Lê Thái Tông về ngự ở Côn Sơn. Theo nghiên cứu của Trần Huy Liệu, căn cứ vào biểu tạ ơn của Nguyễn Trãi, năm 1439, Lê Thái Tông mời ông ra làm quan, khôi phục lại hết các chức tước cũ trừ chức “Lại bộ Thượng thư”.[60] Chức danh và tước hiệu đầy đủ của ông khi ấy là:
Vinh lộc Đại phu, Nhập nội Hành khiển, Môn hạ sảnh Tả ty Hữu Gián nghị Đại phu kiêm Hàn lâm viện Thừa chỉ học sĩ, tri Tam quán sự, Đề cử Côn Sơn Tư Phúc tự, Á đại trí tự, tứ quốc tính Lê Trãi.[61]
Ông cũng được giao cho việc coi giữ sổ sách, xét án kiện quân dân ở Tây đạo và Bắc đạo.[62] Nguyễn Trãi nhận mệnh vua, dâng biểu tạ ơn với sự hả hê thấy rõ. Trần Huy Liệu cho rằng đây là những năm đắc chí nhất của Nguyễn Trãi. Trong khoa thi Hội năm 1442, Nguyễn Trãi với danh nghĩa là Hàn lâm viện Học sĩ kiêm Tri Tam quán sự ra làm Giám khảo và lấy đỗ Trạng nguyên Nguyễn Trực.
Vụ án Lệ Chi Viên[sửa|sửa mã nguồn]
Tháng 9 năm 1442, vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông. [ 63 ] Ngày 1 tháng 9 năm 1442, sau khi nhà vua duyệt binh ở thành Chí Linh, Nguyễn Trãi đón Lê Thái Tông đi thuyền vào chơi chùa Côn Sơn. Khi trở về Đông Kinh, người thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ theo hầu vua. Ngày 7 tháng 9 năm 1442, thuyền về đến Lệ Chi Viên [ e ] thì vua bị bệnh, thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi mất. Các quan giấu kín chuyện này, nửa đêm ngày 9 tháng 9 năm 1442 về đến Đông Kinh mới phát tang. Triều đình quy tội Nguyễn Thị Lộ giết vua, bèn bắt bà và Nguyễn Trãi, khép hai người vào thủ đoạn giết vua. Ngày 19 tháng 9 năm 1442 ( tức ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất ), Nguyễn Trãi bị giết cùng người thân trong gia đình 3 họ, gọi là tru di tam tộc .
Di lụy và phục sinh[sửa|sửa mã nguồn]
Sau khi Nguyễn Trãi chết, đa phần những di cảo thơ văn và trước tác của ông đều bị tiêu hủy. Bản khắc in sách Dư địa chí bị Đại Tư đồ Đinh Liệt sai hủy[64] (năm 1447).[65] Nhiều trước tác mất vĩnh viễn đến nay như Luật thư,[66] Ngọc đường di cảo, Giao tự đại lễ… Theo gia phả họ Nguyễn ở Chi Ngãi, phường cộng hòa(chí linh),Phương Quất( kim môn) và gia phả ở nhị khê(thường tín hà nội), thì Nguyễn Trãi có 5 bà vợ và 7 người con.Vợ cả là bà Trần thị Thành sinh được 3 người con là: Nguyễn Khuê,Nguyễn Ứng,Nguyễn Phù(tức Nguyễn Hồng Quý hay Hồng Quỳ),Vợ thứ hai họ Phùng(quê ở xã Nguyệt Áng Thanh trì,Hà Nội) sinh được 3 người con là Nguyễn Thị Trà,Nguyễn Bản, Nguyễn Tích.Vợ thứ ba là bà Nguyễn Thị Lộ( quê ở Hưng Hà, Thái Bình) không có con.Vợ thứ tư là bà Phạm Thị Mẫn( quê ở làng Nỗ Vệ, Thụy Phú,Phú Xuyên,Hà Nội) sinh được 1 người con là Nguyễn Anh Vũ.Vợ thứ năm là bà Lê Thị phu Nhân( người làng Chi Ngãi, phường Cộng Hòa, Chí Linh) sinh được 1 người con là Nguyễn Năng Đoán.Gia quyến Nguyễn Trãi cũng lưu tán khi biến cố Lệ Chi Viên xảy đến,nhiều người trong gia đình họ tộc bị hành hình, có nhũng người lánh nạn trốn án. Căn cứ vào các gia phả, kết hợp với kết quả khaỏ sát thực tế tại các chi họ Nguyễn, bước đầu xác định nhiều người trong gia đình Nguyễn Trãi còn sống sót. Ngoài một số anh em của Nguyễn Trãi, các gia phả ghi lại còn 2 trong số 5 người vợ của ông thoát nạn là bà Phạm Thị Mẫn và bà Lê Thị Phu Nhân.Theo một số nhà nghiên cứu lịch sử, trong 7 người con của Nguyễn Trãi, còn 3 người con trai và 1 người con gái thoát nạn tru di. Người đầu tiên là Nguyễn Phù sau vụ Án Lệ Chi Viên ông chạy về phù Đàm( nay là Phù Khê, Từ Sơn, Bắc Ninh)ẩn tích,sau đó phát triển chi họ nguyễn ở đó. Một người con chạy lên thái nguyên. Một người con khác của Nguyễn Trãi – chạy lên Cao Bằng, đổi họ sang họ Bế Nguyễn. Bà vợ thứ năm của Nguyễn Trãi là Lê thị, đang mang thai, phải trốn về Phương Quất, huyện Kim Môn, Hải Dương. Đặc biệt, bà vợ thứ tư của Nguyễn Trãi là Phạm Thị Mẫn, lúc đó cũng đang mang thai, được người học trò cũ của chồng là Lê Đạt giúp chạy trốn vào xứ Bồn Man, sau về thôn Dự Quần, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Tại đây, bà sinh ra Nguyễn Anh Vũ. Để tránh sự truy sát của triều đình, Nguyễn Anh Vũ đổi sang họ mẹ là Phạm Anh Vũ.Theo gia phả họ nguyễn Phù Khê em trai Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Hùng theo cha đến Bắc Quốc, chọn đạo Phúc Kiến Trung Quốc để ở rồi sau đó đổi làm họ Ngô. Sau trở về nước tại huyện Đan Phượng, phủ Hoài Đức lại đổi thành họ Nguyễn Phi. Bây giờ là chi Dương Liễu, Hoài Đức, Hà Nội.
Tháng 8 năm 1464, sau 22 năm, vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu đại xá cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước hiệu là Tán Trù bá, bãi bỏ lệnh truy sát của triều đình với gia quyến Nguyễn Trãi và ra lệnh bổ dụng con cháu ông làm quan. Các ông Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, Lê Sát… cũng được đại xá trong các đời Nhân Tông và Thánh Tông.
Nguyễn Anh Vũ khi ấy đi thi đỗ Hương cống, được nhà vua chỉ định làm Tri huyện. [ 67 ]
Năm 1467, Lê Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi. Sau khi Nguyễn Trãi bị nạn 70 năm, ngày 8 tháng 8 năm 1512, vua Lê Tương Dực truy tặng Nguyễn Trãi tước Tế Văn hầu, đến thời điểm này, Nguyễn Trãi mới được truy tặng tước vị tương đương lúc sinh thời, chế văn truy tặng có câu:
“ | Long hổ phong vân chi hội, do tưởng tiền duyên
Văn chương sự nghiệp chi truyền, vĩnh thùy hậu thế Dịch là: Gặp gỡ long hổ phong vân, còn ghi duyên cũ Truyền tụng văn chương sự nghiệp, để mãi đời sau[68] |
” |
Nguyễn Trãi có 5 người vợ và 7 người con trai
- Bà Trần Thị Thành
- Bà Phùng Thị
- Bà Lê Thị
- Bà Nguyễn Thị Lộ
- Bà Phạm Trí Mẫn
- Bà Đậu Minh Trí
Tư tưởng Nguyễn Trãi[sửa|sửa mã nguồn]
Thời hiện đại, một số nhà làm sử ở Việt Nam như Doãn Chính, Phan Huy Lê, Nguyễn Khắc Thuần… đã viết các sách với nội dung mà họ gọi là Tư tưởng Nguyễn Trãi, nay trích lại dưới đây:
Nguyễn Trãi được coi là một nhà tư tưởng lớn của Nước Ta, [ 69 ] tư tưởng của ông là loại sản phẩm của nền văn hóa truyền thống Nước Ta thời đại nhà Hậu Lê khi mà xã hội Nước Ta đang trên đà tăng trưởng, [ 70 ] ghi lại một quá trình tăng trưởng quan trọng trong lịch sử dân tộc tư tưởng Nước Ta .Tư tưởng Nguyễn Trãi không được ông trình diễn thành một học thuyết có mạng lưới hệ thống hay tiềm ẩn trong một trước tác đơn cử nào mà được bộc lộ rải rác qua những tác phẩm của ông, được phát hiện bằng những khu công trình nghiên cứu và điều tra của những nhà khoa học xã hội tân tiến. Nét điển hình nổi bật trong tư tưởng Nguyễn Trãi là sự hòa quyện, chắt lọc giữa tư tưởng Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo [ 71 ] ( trong đó Nho giáo đóng vai trò hầu hết ), có sự phối hợp ngặt nghèo với thực trạng thực tiễn Nước Ta lúc đó .
Ảnh hưởng của Nho giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi[sửa|sửa mã nguồn]
Tư tưởng Nguyễn Trãi xuất phát từ Nho giáo, mà đơn cử là Nho giáo Khổng Tử. Ông đã vận dụng xuất sắc những tư tưởng Nho giáo vào công cuộc khởi nghĩa, chống lại sự thống trị của nhà Minh lên Nước Ta cũng như trong công cuộc kiến thiết xây dựng quốc gia thời kì đầu nhà Hậu Lê .
- Tư tưởng nhân nghĩa: Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nội dung cốt lõi trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học – chính trị của ông. Tư tưởng ấy có phạm vi rộng lớn, vượt ra ngoài đường lối chính trị thông thường, đạt tới mức độ khái quát, trở thành nền tảng, cơ sở của đường lối và chuẩn mực của quan hệ chính trị, là nguyên tắc trong việc quản lý, lãnh đạo quốc gia.[72] Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với tư tưởng nhân dân, tinh thần yêu nước, tư tưởng hòa bình là một đường lối chính trị, một chính sách cứu nước và dựng nước. Nhân nghĩa còn được thể hiện ước mơ xây dựng xã hội lý tưởng cho nền thái bình muôn thuở: xã hội Nghiêu Thuấn của Nguyễn Trãi. Tất nhiên mơ ước ấy của ông là không tưởng.[73]
- Mệnh trời: Nguyễn Trãi tin ở Trời và ông coi Trời là đấng tạo hóa sinh ra muôn vật. Cuộc đời của mỗi con người đều do mệnh trời sắp đặt. Vận nước, mệnh vua cũng là do trời quy định. Nhưng Trời không chỉ là đấng sinh thành, mà còn có tình cảm, tấm lòng giống như cha mẹ. Lòng hiếu sinh và đạo trời lại rất hòa hợp với tâm lý phổ biến và nguyện vọng tha thiết của lòng người, đó là hạnh phúc, ấm no và thái bình. Nếu con người biết tuân theo lẽ trời, mệnh trời, thì có thể biến yếu thành mạnh, chuyển bại thành thắng. Và ngược lại, theo Nguyễn Trãi, nếu con người không theo ý trời, lòng trời, thì có thể chuyển yên thành nguy và tự rước họa vào thân.
- Tư tưởng nhân dân: Nguyễn Trãi đầy lòng thương dân, yêu dân và trọng dân. Ông khẳng định nhân dân là lực lượng sản xuất ra vật chất của xã hội và động lực quyết định sự suy vong của triều đại, đất nước. Ông được coi là nhân vật lịch sử có tư tưởng nhân dân cao quý nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam.[74]
- Quan điểm sống: Nguyễn Trãi khuyên con người ta nên tu thân theo các tiêu chuẩn Nho giáo: sống trung dung, tuân theo tam cương ngũ thường, đặc biệt là đạo hiếu và đạo trung.
Về tác động ảnh hưởng của Nho giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi, Trần Đình Hượu cho rằng :
“ | Về hệ thống, tư tưởng nhân sinh của Nguyễn Trãi vẫn thuộc Nho giáo nhưng là một Nho giáo khoáng đạt, rộng rãi, không câu nệ và vì vậy không chỉ là gần gũi mà còn là phong phú hơn, cao hơn lối sống thuộc dân tộc trước đó | ” |
— Trần Đình Hượu |
Ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi[sửa|sửa mã nguồn]
Ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo trong tư tưởng Nguyễn Trãi chủ yếu qua các tác phẩm thơ văn của ông với nội dung khuyên răn luân lý. Ông khuyên con người ta không coi trọng vật chất mà nên sống với chữ đức, hiểu được giá trị bền vững của đạo đức, coi trọng danh dự và sự giàu có về tâm hồn hơn là sự giàu có về tiền bạc. Danh lợi là sắc không, đạo đức mới là của chầy. Muốn có đạo đức thì phải làm điều thiện, sống có hiếu, có khí tiết, không uốn mình, không cầu xin danh lợi, không oán thán, biết tha thứ cho người khác, sống trong sạch, lành mạnh, thanh tịnh, luôn nhận phần thiệt thòi về mình. Tư tưởng Lão – Trang thể hiện ở quan niệm sống phủ nhận danh lợi, ung dung tự tại, vô vi và hòa hợp với thiên nhiên.[75]
Một số quan điểm cho rằng, ảnh hưởng tác động của Phật giáo và Đạo giáo, dù chỉ giữ vị trí thứ yếu trong tư tưởng Nguyễn Trãi, chính là ảnh hưởng tác động của tam giáo đồng nguyên trong hệ tư tưởng Lý – Trần. Nguyễn Trãi sống trong một thời kỳ quá độ, thời kỳ bản lề của hai chặng đường lịch sử vẻ vang văn hóa truyền thống Nước Ta. Trước Nguyễn Trãi là một văn hóa truyền thống Đại Việt được cấu trúc theo quy mô Phật giáo, sau Nguyễn Trãi là một văn hóa truyền thống Đại Việt được cấu trúc theo quy mô Nho giáo từ Trung Quốc. Nguyễn Trãi chủ trương thiết kế xây dựng một nền văn hóa truyền thống dân tộc bản địa, Nho giáo trong tư tưởng của ông hoàn toàn có thể gọi là tư tưởng Nho giáo dân gian. Sự thất bại của Nguyễn Trãi trong việc chế định nhã nhạc và việc Lương Đăng trọn vẹn mô phỏng nhã nhạc triều Minh trong việc soạn nhạc cung đình triều Lê đã lưu lại một bước ngoặt trong sự tiến triển của thực trạng nhị nguyên văn hóa giữa cung đình và dân gian. Sức sống của nền văn hóa truyền thống dân tộc bản địa giờ đây phải tìm về kho tàng văn hóa truyền thống dân gian, ở đó những cương lĩnh Nho giáo đã bị lật ngược lại, còn trong triều đình thì về chính trị là chính sách TW tập quyền theo hướng chuyên chế, về tư tưởng – văn hóa truyền thống thì theo hướng duy nhất Nho giáo, bài xích Phật giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian. [ 76 ]
Sự nghiệp văn chương[sửa|sửa mã nguồn]
Theo Lê Quý Đôn chép trong sách Đại Việt thông sử, phần Văn tịch chí, thời nhà Minh xâm lược Đại Việt, Trương Phụ thu thập hầu hết sách vở của Đại Việt gửi theo đường sông về Kim Lăng, Trung Quốc. Khi Lê Lợi giành lại độc lập cho Đại Việt, ông mới ra lệnh thu thập sách vở, các bậc danh nho như Lý Tử Tấn, Phan Phu Tiên, Nguyễn Trãi… cùng nhau sưu tập. Nhưng sau cuộc binh hỏa, sách vở mười phần nay chỉ còn được 3, 4 phần, Lê Quý Đôn có thống kê đầy đủ ở sách Đại Việt thông sử.[77]
Đến thời hiện đại, khi biên soạn sách những tác giả như Nguyễn Hữu Sơn, Phan Huy Lê… không rõ căn cứ vào đâu khi họ cho rằng sau vụ Lệ Chi Viên, Đinh Liệt cho hủy các sách của Nguyễn Trãi như Luật thư, Dư địa chí, Ngọc đường di cảo, Giao tự đại lễ…
Văn chính luận[sửa|sửa mã nguồn]
- Lam Sơn thực lục là quyển lịch sử ký sự ghi chép về công cuộc 10 năm khởi nghĩa Lam Sơn, do vua Lê Thái Tổ sai soạn vào năm 1432. Vấn đề tác giả của tác phẩm này vẫn còn chưa rõ ràng,[79] dù cho đến nay nhiều người khẳng định rằng Lam Sơn thực lục là tác phẩm do Nguyễn Trãi nhưng điều đó vẫn chỉ mang tính phỏng đoán.[80]
Văn bia Vĩnh Lăng do Nguyễn Trãi soạn năm 1433
- Vĩnh Lăng thần đạo bi là bài văn bia ở Vĩnh Lăng – lăng của vua Lê Thái Tổ, kể lại thân thế và sự nghiệp của Lê Thái Tổ.
- Dư địa chí, còn gọi là Ức Trai di tập Nam Việt dư địa chí (抑齋遺集南越輿地誌), Đại Việt địa dư chí (大越地輿誌), An Nam vũ cống (安南禹貢), Nam Quốc vũ cống (南國禹貢) hoặc Lê triều cống pháp (黎朝貢法).
Tập thơ này có những bài Nguyễn Trãi họa thơ với các viên quan thái thú nhà Minh lúc đó như Thượng thư Trần Hiệp, với bài Thứ vận Trần thượng thư đề Nguyễn bố chánh thảo đường, hoặc bài đề thơ với Ngự sử Hoàng Phúc, Đề Hoàng ngự sử Mai Tuyết hiên.[81]
- Sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục có những nhận định về Nguyễn Trãi như sau:
- – Theo nhận định của sử quan: Ông Trãi giúp Lê Thái Tổ khai quốc, rồi lại giúp Lê Thái Tông, tài trí, phép tắc, mưu mô, đạo đức, đều vượt hơn hết mọi người lúc bấy giờ.[84]
- – Theo lời phê của Tự Đức: Đời Lê Thái Tông, vua thì buông tuồng, bầy tôi thì chuyên quyền. Trãi nếu là người hiền, thì nên sớm liệu rút lui, ẩn náu tung tích để cho danh tiếng được toàn vẹn. Thế mà lại đi đón trước ngự giá, thả lỏng cho vợ làm việc hoang dâm, vô liêm sỉ. Vậy thì cái vạ tru di cũng là tự Trãi chuốc lấy. Như thế sao được gọi là người hiền?[85]
- – Theo Bảng nhãn Lê Quý Đôn khi xem đến đạo cáo sắc của Nguyễn Trãi: Đấy là phường loạn thần tặc tử, còn cáo sắc làm gì.
- Ức Trai tiên sinh, đương lúc Thái Tổ mới sáng nghiệp theo về Lỗi Giang, trong thì bàn kế hoạch nơi màn trướng, ngoài thì thảo văn thư dụ các thành; văn chương tiên sinh làm vẻ vang cho nước, lại được vua yêu tin quý trọng.[86]
-
-
- Công giúp hồng đồ cao nữa (tựa) núi
- Danh ghi thanh sử sáng bằng gương[87]
-
- Theo Đỗ Nghi: Nhà Lê sở dĩ lấy được thiên hạ đều do sức ông cả và Đỗ Nghi tiếc rằng:
- Tiếc thay trời chưa muốn bình trị thiên hạ, cho nên cuối cùng ông vẫn chỉ làm chức hành khiển Đông đạo, không được giở hết hoài bão của mình; việc đó không phải là không may cho ông, mà chính là không may cho sinh dân đời Lê vậy.[88]
- Theo Dương Bá Cung: công lao của ông trùm khắp trên đời.[89]
- Lê Quý Đôn trong Kiến Văn tiểu lục nhận định về ông:
- Khi vào yết kiến Bình Định vương ở Lỗi Giang liền được tri ngộ, viết thư gửi tướng súy nhà Minh, thảo hịch truyền đi các lộ, đứng vào bậc nhất một đời, chức vị Thượng thư, cấp bậc công thần. Cứ xem ông giúp chính trị hai triều vua hết lòng trung thành, tuy dâng lời khuyên răn thường bị đè nén mà không từng chịu khuất… nhưng vì tối nghĩa về “chỉ, túc” thành ra cuối cùng không giữ được tốt lành, thật đáng thương xót!… Người có công lao đứng đầu về việc giúp rập vua, thì ngàn năm cũng không thể mai một được”.[90]
- Theo Nguyễn Năng Tĩnh:
- Nước Việt ta, từ Đinh, Lê, Lý, Trần, đời nào sáng lập cơ nghiệp đế vương, tất cũng đều phải có các tướng tá giúp sức, nhưng tìm được người toàn tài toàn đức như Ức Trai tiên sinh, thật là ít lắm.[91]
- Ở thế kỷ XX, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đánh giá:
- Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc, văn võ song toàn; văn là chính trị: chính trị cứu nước, cứu dân, nội trị ngoại giao “mở nền thái bình muôn thủa, rửa nỗi thẹn nghìn thu”; võ là quân sự: chiến lược và chiến thuật, “yếu đánh mạnh ít địch nhiều… thắng hung tàn bằng đại nghĩa”; văn và võ đều là võ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm đao… Thật là một con người vĩ đại về nhiều mặt trong lịch sử nước ta.[92]
- Theo Keith Weller Taylor, một sử gia người Mĩ nghiên cứu về lịch sử Việt Nam:
- Lúc đó phần nhiều người ở các vùng xung quanh Hà Nội tức là Đông Kinh theo chính trị của người Minh. Nguyễn Trãi là người Bắc thường, và ông phải chạy đến Thanh Hóa. Hơn 9.000 người Đông Kinh đã làm việc cai trị cho người Minh. Nguyễn Trãi viết thư cố thuyết phục họ bỏ người Minh theo Lê Lợi… Nguyễn Trãi là một nhà thơ tài năng, nhưng vai trò của ông về mặt chính trị và quân đội thì khá mờ nhạt. Lê Lợi và các tướng lĩnh khác chỉ muốn dùng tài năng thơ văn của Nguyễn Trãi để tuyên truyền và vận động dân chúng đứng về phía mình.[93]
- Theo Nguyễn Diên Niên:
- Hành trạng của Nguyễn Trãi ở triều Lê không thể cho ta cái nhận thức ông là một lãnh tụ, linh hồn của Khởi nghĩa Lam Sơn. Ở ông, ông chỉ là một viên quan triều đình như bao viên quan khác. Ông nổi tiếng là ở tài văn chương được người đời ca ngợi trong chức vụ Thừa chỉ mà Thái Tổ ban cho. Lê Thánh Tông cũng đã có một câu đánh giá tài năng văn chương của ông: “Văn chương Nguyễn Trãi làm vẻ vang cho nước”.
Theo tác giả này sách Tang thương ngẫu lục viết vào thế kỷ XVIII đã tạo nên truyền thuyết dân gian về vai trò Lê Lợi số 1, Nguyễn Trãi số 2. Sau này các nhà sử học ở Viện sử học như Phan Huy Lê cũng đã dựa vào truyền thuyết này để viết sách giáo khoa giảng dạy ở các trường học ở Việt Nam.[94]
- Theo một tác giả hiện đại Nguyễn Lương Bích:
- Công lao sự nghiệp của Nguyễn Trãi rõ ràng là huy hoàng, vĩ đại, Nguyễn Trãi quả thật là anh hùng, là khí phách, là tinh hoa của dân tộc. Công lao quý giá nhất và sự nghiệp vĩ đại nhất của Nguyễn Trãi là tấm lòng yêu nước yêu dân tha thiết và sự nghiệp đánh giặc cứu nước vô cùng vẻ vang của ông. Ông đã đem hết tâm hồn, trí tuệ, tài năng phục vụ lợi ích của dân tộc trong phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng chính trị quân sự ưu tú và tài ngoại giao kiệt xuất của ông đã dẫn đường cho phong trào khởi nghĩa Lam Sơn đi tới thắng lợi.[95] Tố chất thiên tài của Nguyễn Trãi là sản phẩm của phong trào đấu tranh anh dũng của dân tộc trong một cao điểm của lịch sử. Thiên tài ấy đã để lại một sự nghiệp lớn về nhiều mặt mà chúng ta còn phải tiếp tục tìm hiểu thêm mới có thể đánh giá đầy đủ và chính xác được. Dầu sao, nếu chỉ xét về mặt văn hóa thì cũng có thể khẳng định rằng Nguyễn Trãi đã cắm một cột mốc quan trọng trên con đường tiến lên của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực văn học.
Về văn chương[sửa|sửa mã nguồn]
Nguyễn Trãi được nhìn nhận là một nhà văn chính luận kiệt xuất. [ 96 ] Đời sau có nhiều người ca tụng văn chương của ông :
- Nguyễn Mộng Tuân xem ông là “bậc văn bá”
- Lê Quý Đôn đánh giá ông là “văn thư thảo hịch giỏi hơn hết một thời”
- Tô Thế Nghi ca ngợi ông là “sông Giang sông Hán trong các sông và sao Ngưu sao Đẩu trong các sao”
- Phạm Đình Hổ xem văn chương của ông “có khí lực dồi dào… đọc không chán miệng”
- Theo Dương Bá Cung, văn Nguyễn Trãi “rõ ràng và sang sảng trong khoảng trời đất”
- Theo Phan Huy Chú: “văn chương mưu lược gắn liền với sự nghiệp kinh bang tế thế”
- Phạm Văn Đồng nhìn nhận văn chương Nguyễn Trãi “đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật, đều hay và đẹp lạ thường”
Riêng những tác phẩm văn chính luận của ông mang tính chiến đấu xuất phát từ ý thức tự giác dùng văn chương Giao hàng cho những mục tiêu chính trị, xã hội, biểu lộ lý tưởng chính trị – xã hội cao nhất trong thời phong kiến Nước Ta. [ 97 ] Ngoài ra, những tác phẩm này còn phản ánh niềm tin dân tộc bản địa đã trưởng thành, điều này được nhìn nhận là một thành tựu lịch sử vẻ vang tư tưởng và lịch sử vẻ vang văn học Nước Ta. [ 98 ]
Về đánh giá và nhận định của Lê Thánh Tông trong thơ ca[sửa|sửa mã nguồn]
Lê Thánh Tông trong bài “Quân minh thần lương” (君明臣良) của tập thơ “Quỳnh uyển cửu ca” (瓊苑九歌) có câu: “Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo” (抑齋心上光奎藻). Trong một thời gian dài, nhiều sách giáo khoa lịch sử và văn học dịch câu này là: “Tâm hồn Úc Trai trong sáng như sao Khuê buổi sớm”. Nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân khẳng định đây là một cách dịch sai lầm và lý giải nguồn gốc như sau:
Cách dịch câu thơ trên của Lê Thánh Tông như mọi người thường biết bắt đầu từ năm 1962, khi nhà sử học Trần Huy Liệu đưa ra bản dịch câu thơ đó trong bài viết nhân dịp kỷ niệm 520 năm ngày mất của Nguyễn Trãi, mà Bùi Duy Tân khẳng định là dịch sai: “Ức Trai lòng sáng như sao Khuê”.[99] Bùi Duy Tân phân tích, trong câu dịch này, chữ “tảo” không được dịch, chữ “Khuê” bị hiểu sai nghĩa về văn cảnh. Các nhà xuất bản, trường học lần lượt sử dụng lời dịch sai này, xem đây là lời bình luận về nhân cách Nguyễn Trãi. Hệ quả là sau đó nhiều tác phẩm văn học, ca kịch… nói về Nguyễn Trãi dùng “sao Khuê” làm cách hoán dụ để nói về ông (“Sao Khuê lấp lánh”, “Vằng vặc sao Khuê”…).
Trong giới nghiên cứu, giảng dạy văn học cổ đã từng có nhiều ý kiến nói về cách dịch sai này, nhưng ít tác giả làm rõ vấn đề.[100] Cần xem câu thơ của Lê Thánh Tông trong toàn bộ bài “Quân minh thần lương” để làm rõ nghĩa:
Nguyên văn chữ Hán :
-
-
- 高帝英雄蓋世名
- 文皇智勇撫盈成
- 抑齋心上光奎藻
- 武穆胸中列甲兵
- 十鄭第兄聯貴顯
- 二申父子佩恩榮
- 孝孫洪德承丕緒
- 八百姬周樂治平
-
Phiên âm Hán-Việt :
-
-
- Cao Đế anh hùng cái thế danh
- Văn Hoàng trí dũng phú doanh thành
- Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo
- Vũ Mục hung trung liệt giáp binh
- Thập Trịnh đệ huynh liên quý hiển
- Nhị Thân phụ tử bội ân vinh
- Hiếu tôn Hồng Đức thừa phi sự
- Bát bách Cơ Chu lạc trị bình
-
Bài thơ này ca ngợi sự nghiệp nhà Hậu Lê. Bản dịch thơ của Hoàng Việt thi văn tuyển xuất bản năm 1958 (xuất bản trước thời điểm Trần Huy Liệu đưa ra bài viết có câu dịch được phổ biến năm 1962) được các nhà nghiên cứu đính chính câu thơ trên cho rằng đã dịch đúng:
- Cao Đế anh hùng dễ mấy ai
- Văn Hoàng trí dũng kế ngôi trời
- Văn chương Nguyễn Trãi lòng soi sáng
- Binh giáp Lê Khôi bụng chứa đầy[101]
- Mười Trịnh vang lừng nền phú quý[f]
- Hai Thân sáng rạng vẻ cân đai[f]
- Cháu nay Hồng Đức nhờ ơn nước
- Cơ nghiệp Thành Chu vận nước dài
Một dị bản khác là Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn, câu thứ 4 không dùng “liệt” mà dùng “uẩn” mang nghĩa chất chứa, được nhìn nhận là chuẩn xác hơn, và do đó đối chỉnh nghĩa với câu 3 về Nguyễn Trãi hơn. Theo nghĩa đen, “khuê” là một trong 28 vị tinh tú, biểu tượng của văn chương; tảo là loài rong biển, nghĩa rộng là màu vẻ đẹp đẽ, không phải mang nghĩa “sớm”.[102]
“Khuê tảo” đi với nhau chỉ văn, đối với “giáp binh” ở câu dưới chỉ võ. Cách dùng “khuê” để chỉ văn chương khá quen thuộc, ngay cả Lê Thánh Tông trong “Quỳnh uyển cửu ca” cũng có viết “…thổ hồng nghê chí khí, quang khuê tảo chi văn” (nghĩa là: “nhả cái khí vồng mống, rạng cái vẻ văn chương…”). Do đó “khuê tảo” trong câu thơ của Lê Thánh Tông là ca ngợi văn chương Nguyễn Trãi chứ không phải ca ngợi nhân cách của ông.[103]
Sự kiện, đền thờ[sửa|sửa mã nguồn]
Năm 1956, Bộ Văn hóa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức triển khai lần tiên phong lễ kỷ niệm Nguyễn Trãi nhân 514 năm ngày mất của ông. [ 104 ] Sau đó, vào những năm 1962, 1967, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều đặn kỉ niệm 520 năm và 525 năm ngày mất của Nguyễn Trãi và đã phát hành một bộ tem về ông vào năm 1962. [ 105 ] Năm 1980, tổ chức triển khai Giáo dục đào tạo, Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc UNESCO tổ chức triển khai kỷ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi. Cũng trong năm đó, Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho phát hành một bộ tem về Nguyễn Trãi nhân kỉ niệm 600 năm ngày sinh của ông. [ 106 ]Đền thờ Nguyễn Trãi ở Nhị Khê, Thành Phố Hà Nội vốn là từ đường của họ Nguyễn Nhị Khê, được kiến thiết xây dựng sau khi vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết cho ông. Đền còn lưu giữ bức chân dung Nguyễn Trãi cổ vẽ trên lụa và nhiều bức hoành phi nêu bật công lao và đức độ Nguyễn Trãi. Nhân dịp kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, nhà thời thánh đã được tôn tạo lan rộng ra, có thêm phòng tọa lạc về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Trãi và tượng đài Nguyễn Trãi. Đền được xếp hạng Di tích lịch sử vẻ vang văn hóa truyền thống vào tháng 1 năm 1964 .Đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, Thành Phố Hải Dương được thi công kiến thiết xây dựng vào năm 2000 và khánh thành vào năm 2002. Tọa lạc tại khu vực động Thanh Hư, đền có mặt bằng rộng 10.000 mét vuông, xoải dốc dưới chân dãy Ngũ Nhạc kề liền núi Kỳ Lân, chia thành nhiều cấp, tạo chiều sâu và tăng tính uy nghiêm. Nghệ thuật trang trí mô phỏng phong thái Lê và Nguyễn. Đền đã được công nhận Di tích nghệ thuật và thẩm mỹ kiến trúc năm 2003. Ngoài ra, Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ cũng được thờ ở làng Khuyến Lương, nay là phường Trần Phú, Q. Quận Hoàng Mai – Hà Nội và ở xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm, TP.HN .
Hình ảnh trong văn hóa truyền thống[sửa|sửa mã nguồn]
Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi đã trở thành cảm hứng cho nhiều tác phẩm nghệ thuật và thẩm mỹ .
Tại thành phố Thành Phố Hà Nội, từ thời Pháp thuộc đã có một con đường nhỏ và ngắn ở khu vực TT mang tên đường Nguyễn Trãi ( nay là đường Nguyễn Văn Tố ). Cuối năm 1945, chính quyền sở tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho đổi tên con đường này, đồng thời đặt tên đường Nguyễn Trãi cho một con đường dài hơn ở khu vực xung quanh hồ Hoàn Kiếm ( nay là đường Lò Sũ ). Tuy nhiên, sau đó đến đầu năm 1951, chính quyền sở tại Quốc gia Nước Ta thân Pháp trong đợt đổi tên đường cũ thời Pháp sang tên danh nhân Nước Ta với quy mô lớn thì vẫn duy trì tên đường Nguyễn Trãi vốn đã có từ Pháp thuộc này. Sau năm 1954, chính quyền sở tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu vẫn duy trì đường Nguyễn Trãi cũ. Tuy nhiên đến năm 1964, trên cơ sở cho rằng con đường Nguyễn Trãi ngắn và nhỏ như vậy trọn vẹn không tương thích với công lao to lớn của ông so với quốc gia, chính quyền sở tại TP.HN lại cho đổi tên đường Nguyễn Trãi cũ thành đường Nguyễn Văn Tố và giữ nguyên cho đến ngày này ; còn tuyến Quốc lộ 6 đoạn từ Ngã Tư Sở đến vùng giáp ranh thị xã HĐ Hà Đông thuộc tỉnh HĐ Hà Đông cũ thì cho đặt tên là đường Nguyễn Trãi. Hiện nay, ở TP.HN có 2 đường phố Nguyễn Trãi, đó là Đường Nguyễn Trãi chạy qua Q. Đống Đa, TX Thanh Xuân và Nam Từ Liêm và Phố Nguyễn Trãi chạy qua phường Nguyễn Trãi, Q. HĐ Hà ĐôngTại đô thị TP HCM – Chợ Lớn, từ năm 1954 chính quyền sở tại Quốc gia Nước Ta thân Pháp ( tiền thân của Nước Ta Cộng hòa ) cũng cho đặt tên một con đường mang tên là đường Nguyễn Trãi tại khu vực thành phố Chợ Lớn cũ. Tuy nhiên một năm sau, vào năm 1955 do thấy không tương thích nên chính quyền sở tại này lại cho đổi tên đường Nguyễn Trãi cũ thành đường Trần Nhân Tôn và giữ nguyên cho đến ngày này ; còn tuyến đường Quang Trung cũ đoạn đi qua khu vực Q. 5 thời nay ( cũng nằm trong khu vực thành phố Chợ Lớn cũ ) vốn dài khoảng chừng 4 km thì cho đặt tên là đường Nguyễn Trãi. Đến năm 1975, chính quyền sở tại quân quản Cộng hòa Miền Nam Nước Ta liên tục cho nhập chung và đổi tên đường Võ Tánh cũ ở khu vực Q. 2 cũ ( nay là Q. 1 ) vốn dài khoảng chừng 2 km thành đường Nguyễn Trãi. Như vậy đường Nguyễn Trãi lúc bấy giờ ở Thành phố Hồ Chí Minh dài khoảng chừng 6 km .Tại thị xã Cần Thơ thuộc tỉnh Cần Thơ cũ ( nay là thành phố Cần Thơ thường trực TW ), từ năm 1954, một phần Quốc lộ 4 cũ ( nay gọi là Quốc lộ 1, nhưng phần này đã trở thành đường chính nội bộ, không còn là một phần của đường quốc lộ ) đoạn từ vòng xoay TT đến cầu Cái Khế cũng được đặt tên là đường Nguyễn Trãi. Sau năm 1975, chính quyền sở tại mới liên tục cho nhập chung và đổi tên đường Hai Bà Trưng cũ ( đoạn từ cầu Cái Khế tới vòng xoay Ngã tư Bến xe ) thành đường Nguyễn Trãi, giữ nguyên cho đến thời nay. Bên cạnh đó từ trước năm 1975 tại thị xã Cái Răng cũ ( nay là phường Lê Bình, Q. Cái Răng ) cũng có một con đường quan trọng mang tên đường Nguyễn Trãi .
Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi đã trở thành cảm hứng của những ngôi trường trên cả nước, đặc biệt quan trọng có 2 trong số đó .
Chú thích và tìm hiểu thêm[sửa|sửa mã nguồn]
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Xem thêm: 7 phương pháp dạy học tiếng việt theo hướng phát triển năng lực hiệu quả – https://thomaygiat.com
Dữ liệu nhân vật | |
---|---|
TÊN | Nguyễn Trãi |
TÊN KHÁC | 阮廌 (chữ Trung Quốc); Ức Trai (bút danh); 抑齋 (chữ Trung Quốc) |
TÓM TẮT | anh hùng dân tộc Việt Nam và danh nhân văn hóa thế giới |
NGÀY SINH | 1380 |
NƠI SINH | Thăng Long |
NGÀY MẤT | 1442 |
NƠI MẤT |
Source: https://thomaygiat.com
Category : Kỹ Thuật Số
Chuyển vùng quốc tế MobiFone và 4 điều cần biết – MobifoneGo
Muốn chuyển vùng quốc tế đối với thuê bao MobiFone thì có những cách nào? Đừng lo lắng, bài viết này của MobiFoneGo sẽ giúp…
Cách copy dữ liệu từ ổ cứng này sang ổ cứng khác
Bạn đang vướng mắc không biết làm thế nào để hoàn toàn có thể copy dữ liệu từ ổ cứng này sang ổ cứng khác…
Hướng dẫn xử lý dữ liệu từ máy chấm công bằng Excel
Hướng dẫn xử lý dữ liệu từ máy chấm công bằng Excel Xử lý dữ liệu từ máy chấm công là việc làm vô cùng…
Cách nhanh nhất để chuyển đổi từ Android sang iPhone 11 | https://thomaygiat.com
Bạn đã mua cho mình một chiếc iPhone 11 mới lạ vừa ra mắt, hoặc có thể bạn đã vung tiền và có một chiếc…
Giải pháp bảo mật thông tin trong các hệ cơ sở dữ liệu phổ biến hiện nay
Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ 4.0 trong đó có internet và các thiết bị công nghệ số. Với các…
4 điều bạn cần lưu ý khi sao lưu dữ liệu trên máy tính
08/10/2020những chú ý khi tiến hành sao lưu dữ liệu trên máy tính trong bài viết dưới đây của máy tính An Phát để bạn…