Bài thơ: Đất nước (Nguyễn Đình Thi)
Nguyễn Đình Thi – một tâm hồn, một con người đa tài với những tác phẩm, bài viết đủ mọi thể loại. Văn học, soạn nhạc, triết học, lí luận phê bình… mặt nào cũng rất tài hoa. Về thơ ca, ông đã có những đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam với giọng thơ sôi nổi, đằm thắm và sâu lắng nhưng lại tao nhã, giản dị gần gũi với mọi người. Tác phẩm nổi bật trong thời kì này là bài thơ Đất nước. Được sáng tác từ 1948-1955, sự kết hợp hai bài thơ Đêm mít tinh và Sáng mát trong như sáng năm xưa đã giúp tác giả hình thành thái độ trân trọng, một cái nhìn đầy đủ về hình ảnh đất nước. Đất nước thực sự là cuốn biên niên sử bằng thơ hào hùng, oanh liệt, vinh quang và rực rỡ của dân tộc.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Đình Thi đã lấy hình ảnh mùa thu đã xa, một mùa thu với những kí ức và hình ảnh đã thuộc về quá khứ.
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Nguyễn Đình Thi đứng trước mùa thu của hiện tại và hồi tưởng về mùa thu quá khứ. Với hình ảnh thu trong lành, mát trong của sáng sớm, với gió mùa thu mang theo hương cốm, tác giả khiến người đọc cảm nhận một mùa thu quen thuộc, một mùa thu xưa đẹp đẽ. Vẻ đẹp của mùa thu, với tác giả, muôn đời vẫn vậy chẳng đổi thay, nỗi nhớ thương về cùng hoài niệm.
Chỉ với một câu thơ “gió thổi mùa thu hương cốm mới” đà đánh thức trong lòng người đọc hình ảnh mùa thu Hà Nội với vẻ đẹp truyền thống, tao nhã, bền vững và cổ xưa. Một chút gió héo may, một chút hương cốm thơm nức. Một hình ảnh quen thuộc kéo dài từ năm này qua năm khác không đổi thay.
Câu thơ “tôi nhớ những mùa thu đã xa” giống như câu thơ bản lề, chuyển hướng, đẩy tâm sự người đọc hướng về hiện tại:
Sáng chớm, lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Khổ thơ sau vẫn là nhịp điệu chậm rãi, tràn đầy nhung nhớ. Nguyễn Đình Thi lại nhắc lại hình ảnh “sáng”. Nhưng ánh thu Hà Nội của hiện tại đẹp mà buồn, gợi bao sự thương nhớ. Sáng mùa thu chớm lạnh trong lòng Hà Nội, hay đúng hơn là cái chớm lạnh của lòng người trước mỗi đợt, mỗi khoảnh khắc thu về. Cái tinh tế của nhà thơ được thể hiện qua câu chữ “trong lòng Hà Nội”. Liệu có phải đây thực ra là nỗi nhớ qua những câu thơ đầy khắc khoải và ám ảnh.
Ở đây, còn gợi thêm một hình ảnh nữa về đặc trưng của Hà Nội: “Con phố dài” và, thêm một nét tinh tế nữa của nhà thơ, đó là việc sử dụng từ láy “xao xác”. Tất cả đều gợi ra sự vắng vẻ, hiu quanh. Sự “xao xác” của lá thu hay là nỗi tâm sự đong đầy. Hình ảnh gió xao xác kết hợp với hình ảnh con phố dài đã tạo ra sự thu hút, sự sâu thẳm.
Và, thật đột ngột, mạch cảm xúc của tác giả thay đổi, với hình ảnh người ra đi. Câu thơ thứ ba như một cái hất đầu ngạo nghễ, một sự quyết tâm đầy kiêu hãnh với chí lớn mang trong người. Nhưng câu thơ cuối lại là một tình cảm sâu lắng, trực tiếp, cảm xúc được dàn trải đều qua trang giấy qua cách ngắt nhịp của tác giả.
Có người nói, hình ảnh của Hà Nội đã thu lại trong câu thơ cuối: “thềm nắng lá rơi đầy”. Câu thơ đẹp và giàu sắc thái thẩm mĩ. Bức tranh thu Hà Nội thấm đầy nắng, gợi nên sắc thái quyến rũ trong tâm trí người ra đi. Mà có khi làm sao mà đi nổi khi một Hà Nội đẹp thế, quyến rũ như thế cứ níu chân chẳng cho đi, làm sao không khỏi mềm lòng.
Đó là mùa thu của quá khứ, còn mùa thu của bây giờ, của hiện tại rực rỡ hơn, tươi mát hơn. Và tự hào hơn trong lòng tác giả
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
Một lời khẳng định đầy kiêu hãnh, gợi mở cho người đọc hướng về hình ảnh mùa thu trong sự đổi mới với mùa thu xưa. Chữ “khác” dường như không chỉ là sự khác biệt về thời gian, không gian như xưa, nay mà còn là sự khác biệt trong nhận thức và tư tưởng của con người. Vì một lẽ đơn giản là muôn đời thu vẫn thế, vẫn gió heo may cùng hương cốm. Vấn đề là cảm nhận của con người mà thôi. Mùa thu xưa là mùa thu của dân tộc nô lệ. Kiếp người khổ đau, vì vậy mà thu có vẻ ảm đạm và thê lương. Khi đã độc lập, mùa thu như rạng rỡ hơn, chan hoà hơn. Giữa sự thay đổi của đất trời, của cuộc đời mới, mỗi người cũng hoà vào tiếng vui chung. Con người giao hoà với đất trời và vũ trụ. Con người lắng nghe được âm hưởng vui mừng của niềm vui độc lập, đó là niềm hạnh phúc tột độ.
Ở đây, không gian thu được mở rộng khoáng đạt hơn. Với tiếng gió thổi rừng tre phấp phới. Vẫn là gió thu, nhưng không phải lặng lẽ, buồn bã, mà là tiếng gió (thổi vào rừng tre) phấp phới. Như muốn gửi trọn niềm vui của con người vào thiên nhiên, vũ trụ.
Hình ảnh rừng tre tượng trưng cho sức mạnh Việt Nam, vẻ đẹp của Việt Nam, niềm vui của thu độc lập. Tất cả như muốn cất lên tiếng reo ca tột độ.
Và trong xúc cảm thăng hoa, Nguyễn Đình Thi có những câu thơ hết mực tài hoa:
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
Mùa thu như được nhân hoá. Và người đọc cảm thấy mùa thu như một thiếu nữ điệu đà, thướt tha đang khoác tấm áo mới rạng rỡ, tươi tắn và dịu dàng. Phải chăng tấm áo ấy là của sự độc lập, tự do của dân tộc.
Mùa thu ở đây vừa có nét tươi trong trẻo của một mùa thu muôn đời, lại vừa có sự phấn khởi, vui mừng. Câu thơ đã gợi ra tất cả xúc cảm, sâu lắng, huyên náo… tạo ra sự giao hoà giữa niềm vui của con người và niềm vui của đất trời trong ngày độc lập.
Và cảm xúc của nhà thơ như trải dài qua khổ thơ:
Trời xanh đay là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Các câu thơ như cuốn vào nhau. Với cách ngắt nhịp mạnh mẽ, ngắn, tạo ra âm hưởng hùng tráng, tràn đầy niềm tự hào.
Nguyễn Đình Thi bây giờ như đang là một hướng dẫn viên, giới thiệu và tỏ bày với mọi người về cảnh sắc quê hương. Đây là núi rừng, trời xanh, kia là cánh đồng, ngả đường, xa hơn nữa là dòng sông.
Tất cả như đang phơi bày vẻ đẹp, sự mỹ lệ vốn có của bản thân. Hay nói đúng hơn, đây là sự háo hức, tất cả sự hãnh diện, vinh dự với tư cách là “người làm chủ”. Tác giả nhấn mạnh vào quan hệ từ “của” như muốn khẳng định sự sở hữu và quyền tự chủ của bản thân.
Ở đây đã có sự thay đổi về cách xưng hô, có sự hoà nhập giữa cái tôi của Nguyễn Đình Thi, của người nghệ sĩ với cái chung của cả dân tộc. Nguyễn Đình Thi không chỉ nói tiếng nói chung của mình mà còn nói tiếng nói chung của cả dân tộc, của mọi người bằng hai tiếng “chúng ta” đầy kiêu hãnh.
Vào thời Pháp thuộc, không hề có chuyện quan niệm “chúng ta”. Tất cả đều đặt dưới sự kiểm duyệt gắt gao của bọn thực dân. Chỉ có thời đại mới, chỉ có xã hội và cái chung “của chúng ta”, chỉ có thời đại mới, chúng ta mới có thể hít thở không khí mát lành của thu tự do, chứ không còn bức bối ngột ngạt như trước. Nguyễn Đình Thi như muốn, khẳng định tính ưu biệt của xã hội mới.
Cảm xúc dâng trào khi nghĩ về sự tự do, độc lập, niềm vui mừng hân hoan bỗng nhiên trầm lắng trong sự suy tưởng.
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Nhịp thơ bỗng thay đổi, mang xúc cảm trầm lắng, ẩn chứa thái độ thành kính thiêng liêng, hướng người đọc trở về quá khứ lịch sử của quê hương.
Khi con người ta vui mừng, hân hoan về một chiến thắng thì bao giờ, sau đó cũng sẽ là những giây phút trầm mặc suy nghĩ về cái giá của chiến thắng đó.
Tứ thơ của Nguyễn Đình Thi về đất nước tạo nên một chiều sâu không cùng. Đất nước ở đây không chỉ được cảm nhận ở hiện tại mà được nhìn nhận trong chiều sâu quá khứ. Quá khứ là bệ phóng, điểm tựa của hiện tại. Theo ông, đất nước ở đây là đất nước của những con người bất tử, chưa bao giờ khuất phục. Chữ “rì rầm” kết hợp với từ “vọng” tạo ra sự hô hứng, cộng hưởng kì diệu. Như thể người cảm nhận được cái cao cả, thiêng liêng, sự gần gũi và thân thiết.
Nguyễn Đình Thi như muốn nêu lên bài học lịch sử cha ông, đạo lý của cha ông được ghi tạc lại trong tâm khảm mỗi con người Việt Nam, ngỡ như lời trò chuyện, tâm tình, thú vị của những người xưa. Tạo nên xúc cảm thiêng liêng thành kính nhưng lại thân thiết và gần gũi. Khổ thơ như khúc nhạc trầm trong bản Instrumental (hoà tan) của Đất nước.
Khi suy nghĩ về tự do, độc lập, về bài học lịch sử của cha ông, Nguyễn Đình Thi hướng dòng suy nghĩ của mình về quá khứ đấu tranh của dân tộc, với những khốc liệt vốn có của nó:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quần nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
Những câu thơ tràn ngập cảm xúc đau thương sâu lắng. Hai câu đầu, có thể coi là hai câu đặc sắc thể hiện tài hoa của nghệ sĩ. Thơ của Nguyễn Đình Thi không chỉ giàu hình ảnh mà đầy ắp tính nhạc và hội hoạ. Các hình ảnh thơ mang giá trị hiện thực cao, sử dụng biện pháp tu từ đặc sắc: cánh đồng quê chảy máu, dây thép gai đâm nát trời., gợi ra một nỗi đau khôn cùng.
Vẻ đẹp bình yên của làng quê đã bị lãng quên, cái yên ả của không gian không còn. Thay vào đó là hình ảnh dây thép gai với tội ác chồng chất của kẻ thù và cánh đồng máu đầy sự đau thương. Câu thơ diễn tả sự khốc liệt của chiến tranh và tội ác ghê ghớm của quân thù, bộc lộ một nỗi đau lên đến tận cùng. Nỗi đau càng lớn, niềm căm thù càng sâu sắc.
Cái tài của tác giả là tự gửi vào thơ chất điện ảnh và hội hoạ đặc tả. Đọc thơ, người đọc như thấy trước mắt mình là cả hiện thực khốc liệt của những năm tháng khổ đau một cách tường tận và chi tiết. Ngòi bút của Nguyễn Đình Thi như một máy quay phim tài ba và đặc biệt giúp cho người đọc nhận ra một bức tranh ngập đầy máu của chiến tranh.
Nỗi đau của con người và màu của ráng chiều đổ xuống gợi nên một màu tang tóc, đau thương. Màu máu đỏ là thay thế hoàn toàn cho sắc xanh của bầu trời, màu vàng óng của cánh đồng lúa.
Nhưng ở hai câu sau, mạch cảm xúc có sự chuyển đổi. Tác giả nói tới hình ảnh của người chiến sĩ ra trận từ trong đau thương, đã quyết tâm nung nấu một ý chí mạnh mẽ. Câu thơ giàu chất hiện thực và chất lãng mạn. Vẽ nên hình ảnh sống động của người lính kiên cường bất khuất, lại vừa sâu lắng và lãng mạn của bài thơ.
Và ở khổ thơ tiếp, Nguyễn Đình Thi đã lí giải sâu xa về sức sống, tinh thần ý chí chiến đấu của người dân.
Từ những nam đau thương chiến đấu
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn
Câu thơ ngắt nhịp khoẻ, rắn rỏi, thể hiện sâu sắc niềm tự hào, kiêu hãnh của tác giả về sức sống và vẻ đẹp của cả dân tộc. Từ “ngời” và “bật” được dùng rất hay, sự trỗi dậy, hồi sinh kỳ diệu, sự toả sáng, sức sống của dân tộc.
Vẻ đẹp quê hương, sức sống dân tộc được khơi nguồn sâu xa từ năm tháng thương đau. Từ hình ảnh con người bình dị, chân lấm tay bùn đã vươn lên thành anh hùng dũng cảm trong hành động, kiên định trong ý chí. Tứ thơ gợi ra chiều sâu của suy tưởng ở khổ thơ tiếp:
Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây thằng chúa đất
Đứa đe cổ, đứa lột da
Đã khắc hoạ trực tiếp tội ác của kẻ thù với niềm căm thù, nỗi đau tột cùng của nhân dân. Hình ảnh “bát cơm chan đầy nước mắt” là hình ảnh mang tính biểu tượng. Mồ hôi hoà quyện với nước mắt. Câu thơ gợi ra nỗi đau. Sự xót xa của con người trong nô lệ, Cách xưng hô đối lập giữa một bên là chính nghĩa: ta, cùng với một bên là sự phi nghĩa: bọn thằng, đứa… như bao căm thù và uất hận được dồn lại.
Nhưng cho dù chiến tranh có khốc liệt như thế nào, dù quân thù tàn bạo đến dâu, chúng ta vẫn mang trong mình một khí phách anh hùng.
Xiềng xích chúng bay không khoá được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà
Cấu trúc “không”, “đầy” như muốn phủ định lại những gì mà quân đội Pháp đang cố gắng làm ở Việt Nam và khẳng định khí phách ngạo nghễ rất cao của dân tộc.
Nhịp thơ mạnh mẽ, đanh thép làm cho câu thơ trở nên giàu sức biểu tượng. Sự đối lập giữa hai hình ảnh thơ “xiềng xích” và “trời đầy chim, đất đầy hoa” đã thể hiện tinh thần lạc quan của nhân dân, khí phách anh hùng của dân tộc bất chấp sự tàn khốc của chiến tranh và quân thù. Thể hiện sự tin tưởng vào chiến thắng sau này.
Nguyễn Đình Thi đã chạm đến mạch nguồn sâu xa của truyền thống dân tộc và đã khẳng định rằng: dân tộc Việt Nam không chỉ có khí phách anh hùng mà còn có khát vọng tự do và hoà bình.
Ở hai khổ tiếp theo, Nguyễn Đình Thi đã miêu tả cuộc chiến đấu của nhân dân ta:
Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh
Đó là niềm tin và hi vọng chiến thắng mạnh mẽ trong lòng tác giả.
Nhịp thơ như giục giã, vẫy gọi mỗi con người trên con đường ra trận, tạo ra âm hưởng hào hùng của những con người anh hùng trong một đất nước anh hùng.
Đó còn là sự tự hào của tác giả, những câu thơ đậm chất lãng mạn và sử thi. Thể hiện một cảm xúc tươi mới đầy tin tưởng. Tràn đầy âm hưởng hào hùng. Hai hình ảnh “nắng đốt” và “mưa dội” là quá trình gian khổ thăng trầm của dân tộc. Song từ trong gian khổ, khó khăn ấy, dân tộc vẫn đứng lên.
Hai câu thơ kết giàu hình ảnh tráng lệ. Hình ảnh “trán cháy rực” và “bát ngát ánh bình minh” gợi lên nét vẽ rạng ngời về những đứa con của Tổ quốc. Dù có hi sinh, vất vả thì vẫn quyết tâm giành lại độc lập. Hình ảnh rất độc đáo, diễn tả sự thăng hoa của cảm xúc, niềm tin được thắp sáng. Người đọc hình dung được hình ảnh ngọn lửa của thất vọng. Câu thơ cuối tràn đầy kiêu hãnh, niềm vui, khát vọng bùng nổ hi vọng. Sự bát ngát của trời đất là sự bát ngát của niềm tin con người.
Và giờ đây, qua bao nhiều khó khăn, khốc liệt, bao hi sinh, đất nước ta đã được độc lập.
Súng nổ rung trời giận giữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà
Hai câu đầu tái hiện sinh động không khí của cuộc chiến, cùng với khí phách anh hùng của con người Việt Nam.
Câu thơ thứ nhất ngập tràn tiếng rung, khiến người đọc cảm nhận được sự dữ dội. Động từ “rung” được dùng khá chính xác, không chỉ là sự rung chuyển, khuynh đảo mạnh mẽ mà còn diễn tả niềm căm thù tột cùng đối với quân thù.
Nguyễn Đình Thi đã sử dụng biện pháp nhân hoá và so sánh tài tình. Ông khiến cho người đọc, ngay lập tức sau khi đọc song hai câu đầu, cảm nhận được sự khốc liệt và sự mạnh mẽ, khí thế của quân đội ta phải ngập trời đất.
Đến tận cuối bài thơ, tác giả mới gọi tên Việt Nam với sự tự do, tự chủ, sự kiêu hãnh. Ông cảm nhận được hình ảnh đất nước trong lòng.
Từ máu lửa và bùn đen đã bật dậy và sáng loà, rực rỡ huy hoàng. Câu thơ giàu giá trị biểu tượng và tính khái quát, cộng với tính nghệ thuật rất cao. Nhịp thơ 2/2/2. Vận động khoẻ khoắn, sự vươn lên của dân tộc bởi một sức sống kì vĩ và bất tử.
Bài thơ kết thúc bằng ánh sáng, thể hiện niềm tin và khát vọng mạnh mẽ, vinh quang. Đất nước đã ghi lại và vẽ nên một hình ảnh đất nước Việt Nam với bao thăng trầm, khói lửa để đến được ngày độc lập. Đất nước xứng đáng dược coi là cuốn biên niên sử nước ta bằng thơ. Đây là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sử thi và sáng tạo nghệ thuật tài năng của Nguyễn Đình Thi.
(Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương – Việt Trì – Phú Thọ)
tửu tận tình do tại
Bạn đang đọc: Bài thơ: Đất nước (Nguyễn Đình Thi)
Nguyễn Đình Thi đứng trước mùa thu của hiện tại và hồi tưởng về mùa thu quá khứ. Với hình ảnh thu trong lành, mát trong của sáng sớm, với gió mùa thu mang theo hương cốm, tác giả khiến người đọc cảm nhận một mùa thu quen thuộc, một mùa thu xưa xinh xắn. Vẻ đẹp của mùa thu, với tác giả, muôn đời vẫn vậy chẳng thay đổi, nỗi nhớ thương về cùng hoài niệm. Chỉ với một câu thơ “ gió thổi mùa thu hương cốm mới ” đà thức tỉnh trong lòng người đọc hình ảnh mùa thu Thành Phố Hà Nội với vẻ đẹp truyền thống lịch sử, thanh nhã, vững chắc và cổ xưa. Một chút gió héo may, một chút ít hương cốm thơm nức. Một hình ảnh quen thuộc lê dài từ năm này qua năm khác không đổi thay. Câu thơ “ tôi nhớ những mùa thu đã xa ” giống như câu thơ bản lề, chuyển hướng, đẩy tâm sự người đọc hướng về hiện tại : Khổ thơ sau vẫn là nhịp điệu chậm rãi, tràn trề nhung nhớ. Nguyễn Đình Thi lại nhắc lại hình ảnh “ sáng ”. Nhưng ánh thu TP. Hà Nội của hiện tại đẹp mà buồn, gợi bao sự thương nhớ. Sáng mùa thu chớm lạnh trong lòng TP. Hà Nội, hay đúng hơn là cái chớm lạnh của lòng người trước mỗi đợt, mỗi khoảnh khắc thu về. Cái tinh xảo của nhà thơ được bộc lộ qua câu chữ “ trong lòng Thành Phố Hà Nội ”. Liệu có phải đây thực ra là nỗi nhớ qua những câu thơ đầy khắc khoải và ám ảnh. Ở đây, còn gợi thêm một hình ảnh nữa về đặc trưng của Thành Phố Hà Nội : “ Con phố dài ” và, thêm một nét tinh xảo nữa của nhà thơ, đó là việc sử dụng từ láy “ xao xác ”. Tất cả đều gợi ra sự vắng vẻ, hiu quanh. Sự “ xao xác ” của lá thu hay là nỗi tâm sự đong đầy. Hình ảnh gió xao xác phối hợp với hình ảnh con phố dài đã tạo ra sự lôi cuốn, sự sâu thẳm. Và, thật bất thần, mạch cảm hứng của tác giả biến hóa, với hình ảnh người ra đi. Câu thơ thứ ba như một cái hất đầu ngạo nghễ, một sự quyết tâm đầy tự tôn với chí lớn mang trong người. Nhưng câu thơ cuối lại là một tình cảm sâu lắng, trực tiếp, cảm hứng được giàn trải đều qua trang giấy qua cách ngắt nhịp của tác giả. Có người nói, hình ảnh của Thành Phố Hà Nội đã thu lại trong câu thơ cuối : “ thềm nắng lá rơi đầy ”. Câu thơ đẹp và giàu sắc thái thẩm mĩ. Bức tranh thu Thành Phố Hà Nội thấm đầy nắng, gợi nên sắc thái điệu đàng trong tâm lý người ra đi. Mà có khi làm thế nào mà đi nổi khi một TP.HN đẹp thế, điệu đàng như thế cứ níu chân chẳng cho đi, làm thế nào không khỏi mềm lòng. Đó là mùa thu của quá khứ, còn mùa thu của giờ đây, của hiện tại bùng cháy rực rỡ hơn, tươi mát hơn. Và tự hào hơn trong lòng tác giảMột lời chứng minh và khẳng định đầy tự tôn, gợi mở cho người đọc hướng về hình ảnh mùa thu trong sự thay đổi với mùa thu xưa. Chữ “ khác ” có vẻ như không chỉ là sự độc lạ về thời hạn, khoảng trống như xưa, nay mà còn là sự độc lạ trong nhận thức và tư tưởng của con người. Vì một lẽ đơn thuần là muôn đời thu vẫn thế, vẫn gió heo may cùng hương cốm. Vấn đề là cảm nhận của con người mà thôi. Mùa thu xưa là mùa thu của dân tộc bản địa nô lệ. Kiếp người khổ đau, vì thế mà thu có vẻ như ảm đạm và thê lương. Khi đã độc lập, mùa thu như rạng rỡ hơn, chan hoà hơn. Giữa sự biến hóa của đất trời, của cuộc đời mới, mỗi người cũng hoà vào tiếng vui chung. Con người giao hoà với đất trời và ngoài hành tinh. Con người lắng nghe được âm hưởng vui mừng của niềm vui độc lập, đó là niềm niềm hạnh phúc tột độ. Ở đây, khoảng trống thu được lan rộng ra khoáng đạt hơn. Với tiếng gió thổi rừng tre phấp phới. Vẫn là gió thu, nhưng không phải lặng lẽ, buồn bã, mà là tiếng gió ( thổi vào rừng tre ) phấp phới. Như muốn gửi trọn niềm vui của con người vào vạn vật thiên nhiên, ngoài hành tinh. Hình ảnh rừng tre tượng trưng cho sức mạnh Nước Ta, vẻ đẹp của Nước Ta, niềm vui của thu độc lập. Tất cả như muốn cất lên tiếng reo ca tột độ. Và trong xúc cảm thăng hoa, Nguyễn Đình Thi có những câu thơ hết mực tài hoa : Mùa thu như được nhân hoá. Và người đọc cảm thấy mùa thu như một thiếu nữ điệu đà, thướt tha đang khoác tấm áo mới rạng rỡ, tươi tắn và dịu dàng êm ả. Phải chăng tấm áo ấy là của sự độc lập, tự do của dân tộc bản địa. Mùa thu ở đây vừa có nét tươi trong trẻo của một mùa thu muôn đời, lại vừa có sự phấn khởi, vui mừng. Câu thơ đã gợi ra toàn bộ xúc cảm, sâu lắng, huyên náo … tạo ra sự giao hoà giữa niềm vui của con người và niềm vui của đất trời trong ngày độc lập. Và cảm hứng của nhà thơ như trải dài qua khổ thơ : Các câu thơ như cuốn vào nhau. Với cách ngắt nhịp can đảm và mạnh mẽ, ngắn, tạo ra âm hưởng hùng tráng, tràn trề niềm tự hào. Nguyễn Đình Thi giờ đây như đang là một hướng dẫn viên du lịch, trình làng và tỏ bày với mọi người về cảnh sắc quê nhà. Đây là núi rừng, trời xanh, kia là cánh đồng, ngả đường, xa hơn nữa là dòng sông. Tất cả như đang trình diện vẻ đẹp, sự mỹ lệ vốn có của bản thân. Hay nói đúng hơn, đây là sự háo hức, tổng thể sự hãnh diện, vinh dự với tư cách là “ người làm chủ ”. Tác giả nhấn mạnh vấn đề vào quan hệ từ “ của ” như muốn khẳng định chắc chắn sự chiếm hữu và quyền tự chủ của bản thân. Ở đây đã có sự biến hóa về cách xưng hô, có sự hoà nhập giữa cái tôi của Nguyễn Đình Thi, của người nghệ sĩ với cái chung của cả dân tộc bản địa. Nguyễn Đình Thi không chỉ nói tiếng nói chung của mình mà còn nói tiếng nói chung của cả dân tộc bản địa, của mọi người bằng hai tiếng ” tất cả chúng ta ” đầy tự tôn. Vào thời Pháp thuộc, không hề có chuyện ý niệm “ tất cả chúng ta ”. Tất cả đều đặt dưới sự kiểm duyệt gắt gao của bọn thực dân. Chỉ có thời đại mới, chỉ có xã hội và cái chung “ của tất cả chúng ta ”, chỉ có thời đại mới, tất cả chúng ta mới hoàn toàn có thể hít thở không khí mát lành của thu tự do, chứ không còn bức bối ngột ngạt như trước. Nguyễn Đình Thi như muốn, khẳng định tính ưu biệt của xã hội mới. Cảm xúc dâng trào khi nghĩ về sự tự do, độc lập, niềm vui mừng hân hoan tự nhiên chững lại trong sự suy tưởng. Nhịp thơ bỗng biến hóa, mang xúc cảm chững lại, chứa đựng thái độ tôn kính thiêng liêng, hướng người đọc quay trở lại quá khứ lịch sử vẻ vang của quê nhà. Khi con người ta vui mừng, hân hoan về một thắng lợi thì khi nào, sau đó cũng sẽ là những tích tắc trầm mặc tâm lý về cái giá của thắng lợi đó. Tứ thơ của Nguyễn Đình Thi về đất nước tạo nên một chiều sâu không cùng. Đất nước ở đây không riêng gì được cảm nhận ở hiện tại mà được nhìn nhận trong chiều sâu quá khứ. Quá khứ là bệ phóng, điểm tựa của hiện tại. Theo ông, đất nước ở đây là đất nước của những con người bất tử, chưa khi nào khuất phục. Chữ “ rì rầm ” tích hợp với từ “ vọng ” tạo ra sự hô hứng, cộng hưởng kì diệu. Như thể người cảm nhận được cái cao quý, thiêng liêng, sự thân mật và thân thương. Nguyễn Đình Thi như muốn nêu lên bài học kinh nghiệm lịch sử vẻ vang cha ông, đạo lý của cha ông được ghi tạc lại trong tâm khảm mỗi con người Nước Ta, ngỡ như lời trò chuyện, tâm tình, mê hoặc của những người xưa. Tạo nên xúc cảm thiêng liêng tôn kính nhưng lại thân thiện và thân thiện. Khổ thơ như khúc nhạc trầm trong bản Instrumental ( hoà tan ) củaKhi tâm lý về tự do, độc lập, về bài học kinh nghiệm lịch sử dân tộc của cha ông, Nguyễn Đình Thi hướng dòng tâm lý của mình về quá khứ đấu tranh của dân tộc bản địa, với những quyết liệt vốn có của nó : Những câu thơ tràn ngập cảm hứng đau thương sâu lắng. Hai câu đầu, hoàn toàn có thể coi là hai câu rực rỡ biểu lộ tài hoa của nghệ sĩ. Thơ của Nguyễn Đình Thi không chỉ giàu hình ảnh mà đầy ắp tính nhạc và hội hoạ. Các hình ảnh thơ mang giá trị hiện thực cao, sử dụng giải pháp tu từ rực rỡ : cánh đồng quê chảy máu, dây thép gai đâm nát trời., gợi ra một nỗi đau khôn cùng. Vẻ đẹp bình yên của làng quê đã bị quên lãng, cái yên ả của khoảng trống không còn. Thay vào đó là hình ảnh dây thép gai với tội ác chồng chất của quân địch và cánh đồng máu đầy sự đau thương. Câu thơ diễn đạt sự quyết liệt của cuộc chiến tranh và tội ác ghê ghớm của quân địch, thể hiện một nỗi đau lên đến tận cùng. Nỗi đau càng lớn, niềm căm thù càng thâm thúy. Cái tài của tác giả là tự gửi vào thơ chất điện ảnh và hội hoạ đặc tả. Đọc thơ, người đọc như thấy trước mắt mình là cả hiện thực quyết liệt của những năm tháng khổ đau một cách tường tận và cụ thể. Ngòi bút của Nguyễn Đình Thi như một máy quay phim tài ba và đặc biệt quan trọng giúp cho người đọc nhận ra một bức tranh ngập đầy máu của cuộc chiến tranh. Nỗi đau của con người và màu của ráng chiều đổ xuống gợi nên một màu tang tóc, đau thương. Màu máu đỏ là thay thế sửa chữa trọn vẹn cho sắc xanh của khung trời, màu vàng óng của cánh đồng lúa. Nhưng ở hai câu sau, mạch xúc cảm có sự quy đổi. Tác giả nói tới hình ảnh của người chiến sỹ ra trận từ trong đau thương, đã quyết tâm nung nấu một ý chí can đảm và mạnh mẽ. Câu thơ giàu chất hiện thực và chất lãng mạn. Vẽ nên hình ảnh sôi động của người lính kiên cường quật cường, lại vừa sâu lắng và lãng mạn của bài thơ. Và ở khổ thơ tiếp, Nguyễn Đình Thi đã lí giải sâu xa về sức sống, niềm tin ý chí chiến đấu của dân cư. Câu thơ ngắt nhịp khoẻ, rắn rỏi, bộc lộ thâm thúy niềm tự hào, tự tôn của tác giả về sức sống và vẻ đẹp của cả dân tộc bản địa. Từ “ ngời ” và “ bật ” được dùng rất hay, sự trỗi dậy, hồi sinh kỳ diệu, sự toả sáng, sức sống của dân tộc bản địa. Vẻ đẹp quê nhà, sức sống dân tộc bản địa được khơi nguồn sâu xa từ năm tháng thương đau. Từ hình ảnh con người bình dị, chân lấm tay bùn đã vươn lên thành anh hùng gan góc trong hành vi, kiên trì trong ý chí. Tứ thơ gợi ra chiều sâu của suy tưởng ở khổ thơ tiếp : Đã khắc hoạ trực tiếp tội ác của quân địch với niềm căm thù, nỗi đau tột cùng của nhân dân. Hình ảnh “ bát cơm chan đầy nước mắt ” là hình ảnh mang tính hình tượng. Mồ hôi hoà quyện với nước mắt. Câu thơ gợi ra nỗi đau. Sự xót xa của con người trong nô lệ, Cách xưng hô trái chiều giữa một bên là chính nghĩa : ta, cùng với một bên là sự phi nghĩa : bọn thằng, đứa … như bao căm thù và uất hận được dồn lại. Nhưng mặc dầu cuộc chiến tranh có quyết liệt như thế nào, dù quân địch hung tàn đến dâu, tất cả chúng ta vẫn mang trong mình một khí phách anh hùng. Cấu trúc “ không ”, “ đầy ” như muốn phủ định lại những gì mà quân đội Pháp đang cố gắng nỗ lực làm ở Nước Ta và chứng minh và khẳng định khí phách ngạo nghễ rất cao của dân tộc bản địa. Nhịp thơ can đảm và mạnh mẽ, đanh thép làm cho câu thơ trở nên giàu sức hình tượng. Sự trái chiều giữa hai hình ảnh thơ “ xiềng xích ” và “ trời đầy chim, đất đầy hoa ” đã bộc lộ niềm tin sáng sủa của nhân dân, khí phách anh hùng của dân tộc bản địa bất chấp sự quyết liệt của cuộc chiến tranh và quân địch. Thể hiện sự tin cậy vào thắng lợi sau này. Nguyễn Đình Thi đã chạm đến mạch nguồn sâu xa của truyền thống cuội nguồn dân tộc bản địa và đã khẳng định chắc chắn rằng : dân tộc bản địa Nước Ta không chỉ có khí phách anh hùng mà còn có khát vọng tự do và hoà bình. Ở hai khổ tiếp theo, Nguyễn Đình Thi đã miêu tả cuộc chiến đấu của nhân dân ta : Đó là niềm tin và hy vọng thắng lợi can đảm và mạnh mẽ trong lòng tác giả. Nhịp thơ như giục giã, vẫy gọi mỗi con người trên con đường ra trận, tạo ra âm hưởng hào hùng của những con người anh hùng trong một đất nước anh hùng. Đó còn là sự tự hào của tác giả, những câu thơ đậm chất lãng mạn và sử thi. Thể hiện một cảm hứng tươi mới đầy tin cậy. Tràn đầy âm hưởng hào hùng. Hai hình ảnh “ nắng đốt ” và “ mưa dội ” là quy trình khó khăn thăng trầm của dân tộc bản địa. Song từ trong gian nan, khó khăn vất vả ấy, dân tộc bản địa vẫn đứng lên. Hai câu thơ kết giàu hình ảnh trang trọng. Hình ảnh “ trán cháy rực ” và ” bát ngát ánh bình minh ” gợi lên nét vẽ rạng ngời về những đứa con của Tổ quốc. Dù có hi sinh, khó khăn vất vả thì vẫn quyết tâm giành lại độc lập. Hình ảnh rất độc lạ, miêu tả sự thăng hoa của cảm hứng, niềm tin được thắp sáng. Người đọc tưởng tượng được hình ảnh ngọn lửa của tuyệt vọng. Câu thơ cuối tràn trề tự tôn, niềm vui, khát vọng bùng nổ hy vọng. Sự bát ngát của trời đất là sự bát ngát của niềm tin con người. Và giờ đây, qua bao nhiều khó khăn vất vả, quyết liệt, bao hi sinh, đất nước ta đã được độc lập. Hai câu đầu tái hiện sinh động không khí của đại chiến, cùng với khí phách anh hùng của con người Nước Ta. Câu thơ thứ nhất ngập tràn tiếng rung, khiến người đọc cảm nhận được sự kinh hoàng. Động từ “ rung ” được dùng khá đúng chuẩn, không riêng gì là sự rung chuyển, khuynh đảo can đảm và mạnh mẽ mà còn diễn đạt niềm căm thù tột cùng so với quân địch. Nguyễn Đình Thi đã sử dụng biện pháp nhân hoá và so sánh tài tình. Ông khiến cho người đọc, ngay lập tức sau khi đọc tuy nhiên hai câu đầu, cảm nhận được sự quyết liệt và sự can đảm và mạnh mẽ, khí thế của quân đội ta phải ngập trời đất. Đến tận cuối bài thơ, tác giả mới gọi tên Nước Ta với sự tự do, tự chủ, sự tự tôn. Ông cảm nhận được hình ảnh đất nước trong lòng. Từ máu lửa và bùn đen đã bật dậy và sáng loà, rực rỡ tỏa nắng huy hoàng. Câu thơ giàu giá trị hình tượng và tính khái quát, cộng với tính thẩm mỹ và nghệ thuật rất cao. Nhịp thơ 2/2/2. Vận động khoẻ khoắn, sự vươn lên của dân tộc bản địa bởi một sức sống kì vĩ và bất tử. Bài thơ kết thúc bằng ánh sáng, biểu lộ niềm tin và khát vọng can đảm và mạnh mẽ, vinh quang. đã ghi lại và vẽ nên một hình ảnh đất nước Nước Ta với bao thăng trầm, khói lửa để đến được ngày độc lập. xứng danh dược coi là cuốn biên niên sử nước ta bằng thơ. Đây là sự phối hợp thuần thục giữa sử thi và phát minh sáng tạo nghệ thuật và thẩm mỹ kĩ năng của Nguyễn Đình Thi .
Source: https://thomaygiat.com
Category : Điện Nước
Tuyển dụng, tìm việc làm Thợ Điện tháng 10/2022 – Thợ Sửa Máy Giặt [ Tìm Thợ Sửa Máy Giặt Ở Đây ]
Tất tần tật những điều cần biết về việc làm thợ điện Ghé ngay JobsGO và nhận thông tin về hàng trăm vị trí việc…
Túi đựng đồ nghề Smato chuyên dụng dành cho thợ điện
Hỏi – Đáp 1 Bạn đang đọc: Túi đựng đồ nghề Smato chuyên dụng dành cho thợ điện Túi đựng đồ nghề Smato chuyên dụng…
Tuyển thợ điện nước tại vinh – Sửa Nhà Sơn Nhà 10 Địa Chỉ Uy Tín Tại Hà Nội
Bạn đang gia phú cần tìm Tuyển thợ điện nước tại vinh phát đạt nhưng chưa biết bá đạo tập 2 nơi nào hỗ trợ…
Top 20 tìm việc thợ điện nước tại cần thơ hay nhất 2022 – Sửa Nhà Sơn Nhà 10 Địa Chỉ Uy Tín Tại Hà Nội – Dịch Vụ Bách khoa Sửa Chữa Chuyên nghiệp
Tác giả: thosuadiennuoc.net Ngày đăng: 6/3/2021 Bạn đang đọc : Top 20 tìm việc thợ điện nước tại cần thơ hay nhất 2022 Xếp hạng:…
Tuyển Dụng, Tìm Việc Làm Quận Lê Chân, Hải Phòng Lương Cao T10/2022 – https://thomaygiat.com
Mục ChínhTiềm Năng Phát Triển Của Thị Trường Việc Làm Quận Lê Chân, Hải Phòng 1. Tổng quan thị trường việc làm tại Quận Lê Chân,…
Tìm việc làm thợ điện nước tại hà nội
Bạn đang chăm bé cần tìm Tìm việc làm thợ điện nước tại hà nội trường xuân nhưng chưa biết nhà quận 1 nơi nào…