Giáo Huấn Giáo Hội về các Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội

NHẬP ĐỀ

Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội [ 1 ] không dành một chương riêng cho chủ đề Truyền thông xã hội. [ 2 ] Đề tài này được đề cập trong chương Tám “ Cộng đồng chính trị ”, trong số những định chế của chính sách dân chủ ( số 414 – 416 ), và trong chương Mười Hai “ Hoạt động của Giáo Hội ”, khi bàn về sự lao vào của những giáo dân trong lãnh vực văn hóa truyền thống ( số 560 – 562 ). Thiết tưởng cũng nên biết là Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo đặt việc sử dụng những phương tiện truyền thông xã hội trong phần luân lý, tương quan đến điều răn thứ Tám ( số 2493 – 2499 ) .
Trong bài này, sau vài nhận xét về từ ngữ, chúng tôi sẽ trình diễn ba điểm : 1 / Những khái niệm về Truyền Thông Xã Hội. 2 / Các văn kiện của Giáo Hội về Truyền Thông Xã Hội. 3 / Vài tiêu chuẩn hành vi dựa theo những văn kiện của Giáo Hội .

Nhận xét từ ngữ: Communication

Có lẽ cụm từ “ Truyền Thông Xã Hội ” mới được lưu hành ở Nước Ta trong hậu bán thế kỷ XX, để dịch những từ ngữ “ mass truyền thông, social communication ”. Nói đến “ truyền thông xã hội ” ( hoặc : truyền thông đại chúng ) [ 3 ] tất cả chúng ta liên tưởng ngay đến những “ phương tiện ” dùng để truyền thông ( hay thông tin ), ví dụ điển hình như : báo chí truyền thông, radio, TV, internet, v.v … hơn là chính sự “ truyền thông ” ( truyền thông cái gì, truyền thông để làm gì ). Trong ngôn từ châu Âu ( Latinh, Pháp, Anh ), Communication đã có một lịch sử dân tộc truyền kiếp, với ý nghĩa là “ chuyển đạt, truyền đạt, thông đạt, san sẻ, thông phần ”. Không lạ gì mà thần học vận dụng danh từCommunication cho Thiên Chúa ( Thiên Chúa thông ban chính mình cho trái đất ), cho Giáo Hội ( Giáo Hội thông chuyển ơn cứu độ của Đức Kitô ), cho những bí tích ( sự hiệp thông những bí tích communicatio in sacris ; đối lại là hình phạt “ tuyệt thông ”, excommunicatio ) .
Trong toàn cảnh ấy, khi bàn về yếu tố truyền thông, Giáo Hội nhấn mạnh vấn đề đến tiềm năng của nó là tạo ra mối đối sánh tương quan giữa con người ( xét như cá thể hoặc cộng đoàn ) ; đây là tiêu chuẩn cơ bản nhìn nhận vai trò của những “ phương tiện truyền thông ” : chúng có thực tạo ra sự link giữa con người với nhau hay không, hoặc chỉ gây ra chia rẽ, đố kỵ ?

I. MỘT VÀI KHÁI NIỆM

A. Truyền thông và Phương tiện truyền thông

Con người sống trong xã hội, muốn thông tin cho nhau, trao đổi những hiểu biệt và tâm tình cho nhau. Đây là nền tảng của văn hóa truyền thống. Sự trao đổi hoặc truyền thông hoàn toàn có thể diễn ra ở nhiều cấp : giữa những chủ thể, hoặc trên bình diện xã hội, hoặc trên bình diện đại chúng. Sự truyền thông giữa những chủ thể thường mang tính cách trực tiếp ( nhiều lúc cũng dùng dụng cụ, ví dụ điển hình như điện thoại thông minh ). Sự Truyền Thông Xã Hội thường mang những ý nghĩa nào đó cho một nhóm, và yên cầu những dụng cụ để chuyển tải sứ điệp đến cho cả nhóm nhằm mục đích góp thêm phần vào việc thiết kế xây dựng đời sống xã hội .

B. Phân loại

Có nhiều tiêu chuẩn để phân loại những phương tiện Truyền Thông Xã Hội

1/. Dưới khía cạnh lịch sử: xét theo thứ tự thời gian xuất hiện

Lúc khởi đầu, con người tiếp xúc với nhau bằng lời nói và cử chỉ. Để sự thông tin được tiếp thị hơn ( về thời hạn và khoảng trống ), con người sáng tạo chữ viết ( và giấy ), rồi đến kỹ thuật khắc mộc và máy in. Sang thế kỷ XIX, con người sử dụng điện tín, điện thoại thông minh. Thế kỷ XX tận mắt chứng kiến sự sinh ra của máy phát thanh, điện ảnh, truyền hình, computer, mạng internet .

2/. Dưới khía cạnh kỹ thuật: sự phân loại các cấp độ dựa trên sự can thiệp của kỹ thuật vào việc truyền thông

a /. Những phương tiện cấp một : những phương tiện sơ đẳng giúp con người tiếp xúc và thông tin cho nhau, không cần đến dụng cụ máy móc .
b /. Những phương tiện cấp hai : cần đến máy móc để sản xuất, nhưng không cần máy móc để đảm nhiệm. Thí dụ : báo chí truyền thông cần có máy in để phát hành, nhưng fan hâm mộ không cần dùng máy để đọc .
c /. Những phương tiện cấp ba : cần đến máy móc để sản xuất cũng như để tiêu thụ. Thí dụ : cuốn phim cần đến máy khi sản xuất ( máy quay phim ) cũng như khi tiêu thụ ( máy chiếu phim ) ; phát thanh cần đến máy để phát ( đài phát thanh ) và máy để nghe ( radio ) .
d /. Những phương tiện đại chúng : nhắm đến một đám quần chúng đa diện và vô danh, được triển khai qua hình ảnh và âm thanh. Ở đây việc truyền thông không nhắm tạo ra đối sánh tương quan liên chủ thể. Các phương tiện chính yếu của truyền thông đại chúng là : truyền thanh, truyền hình, internet, báo chí truyền thông, điện ảnh. Qua những phương tiện này, người ta hoàn toàn có thể nhắm đến sự truyền thông xã hội hoặc thương mại .
– Truyền thông xã hội : phát ra những sáng tạo độc đáo ( triết học, ý thức hệ, tư tưởng, v.v … ), qua những đường lối giáo dục, tiếp thị, tuyên truyền, nhằm mục đích tạo ra một dư luận xã hội .
– Truyền thông thương mại : nhắm tới đối tượng người dùng là những người shopping, người mua .
e /. Những phương tiện phụ thuộc vào : nhắm đến một đối tượng người tiêu dùng thu hẹp, nhằm mục đích tạo ra một mối đối sánh tương quan với những người ấy. Ta hoàn toàn có thể kể đến những phương tiện quảng cáo làm thí dụ .

II. NHỮNG VĂN KIỆN GIÁO HỘI

Kể từ khi nào Giáo Hội lên tiếng về những phương tiện truyền thông ? Câu vấn đáp tùy theo tất cả chúng ta hiểu truyền thông theo nghĩa nào. Như vừa nói trên đây, hiểu theo nghĩa rộng, truyền thông gắn liền với bản tính con người : con người chuyển đạt ý tưởng sáng tạo và tâm tình cho người khác, bằng những tín hiệu của lời nói và chữ viết. Kinh Thánh là một dẫn chứng của việc truyền thông ( nổi bật là những thư của Thánh Phaolô ). Lịch sử văn hóa truyền thống những dân tộc bản địa cũng ghi nhận nhiều hình thức truyền thông khác nữa, ví dụ điển hình như : thẩm mỹ và nghệ thuật tranh vẽ, tuồng kịch. Vào thời cận đại, những phương tiện ấy được nâng cấp cải tiến nhờ những kỹ thuật khoa học : ngành in ấn ( thay vì viết tay ) đã giúp tăng gia việc xuất bản sách báo ( đứng đầu là sách Kinh Thánh ) ; ngành điện ảnh làm biến dạng không ít việc trình diễn trên sân khấu. Trong toàn bộ những mục vừa kể, Giáo Hội đều can thiệp hoặc tích cực ( khuyến khích ) hoặc xấu đi ( cảnh báo nhắc nhở rủi ro tiềm ẩn, ví dụ điển hình luật kiểm duyệt sách báo, để tránh những rơi lệch về đức tin và phong hóa ). [ 4 ]
Tuy nhiên, ở đây tất cả chúng ta chỉ chú ý đến những phương tiện truyền thông “ đại chúng ”. Dưới góc nhìn này, những học giả thường chỉ số lượng giới hạn vào những văn kiện trong thế kỷ XX, và đơn cử hơn nữa là bắt nguồn từ Công Đồng Vatican II. Trước hết, tất cả chúng ta hãy điểm qua những văn kiện chính ; kế đó tất cả chúng ta nêu bật vài tư tưởng điển hình nổi bật .

A. Điểm qua các văn kiện của Giáo Hội [5]

1. Thông điệp Vigilanti Cura (29/6/1936) của Đức Thánh Cha Piô XI.[6] Lần đầu tiên một thông điệp giáo hoàng viết về phương tiện Truyền Thông Xã Hội, bàn về điện ảnh, lúc đầu hướng đến các Giám mục Hoa kỳ và sau đó đến các toàn thể các Giám mục trên thế giới. Văn kiện không chỉ lo bảo vệ khỏi những nguy hiểm của điện ảnh như trước đây, nhưng có một cái nhìn tích cực hơn.

2. Thông điệp Miranda Prorsus (8/9/1957) do Đức Thánh Cha Piô XII ban hành, trình bày quan điểm của Giáo Hội về các phương tiện: điện ảnh, radio, TV. Thông điệp đề ra vài nguyên tắc mục vụ trong lãnh vực truyền thông. Văn kiện có cái nhìn tích cực đối với các phương tiện vừa kể, ca ngợi sự tiến bộ của kỹ thuật như là sáng kiến của con người.

3. Thông điệp Inter Mirifica (4/12/1963, viết tắt IM). Đây là lần đầu tiên một Công Đồng ban hành một văn kiện về Truyền Thông Xã Hội.[7] Giáo Hội bàn về “truyền thông” như là một tiến trình giữa con người (chứ không chỉ dừng lại ở “phương tiện”). Sắc lệnh đề nghị tạo ra một văn phòng Tòa Thánh chuyên môn về các phương tiện Truyền Thông Xã Hội (tiền thân của Hội Đồng Giáo Hoàng Truyền Thông Xã Hội hiện nay), cũng như một văn phòng tại mỗi quốc gia với nhiệm vụ chính là thống nhất các nỗ lực, huấn luyện lương tâm, định hướng hoạt động cho các tín hữu. Công Đồng cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc đào tạo hàng giáo sĩ cũng như các giáo dân chuyên môn để đáp ứng những thách đố của thời đại.[8]

4. Huấn thị Communio et Progressio (23/5/1971, viết tắt CP) của Ủy Ban Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội, nhằm thực thi những chỉ thị của Công Đồng Vatican II. Văn kiện có cái nhìn tích cực về các phương tiện Truyền Thông Xã Hội, được coi như Hiến chương của việc truyền thông. Huấn thị trình bày Đức Kitô như là một nhà truyền thông toàn hảo, và Bí tích Thánh Thể được nhìn như sự truyền thông hướng đến sự hiệp thông.

5. Thông điệp Redemptoris Missio (8/12/1990). Trong thông điệp về sứ mạng truyền giáo, Thánh Gioan Phaolô II nhấn mạnh đến việc huấn luyện Dân Chúa sử dụng những phương tiện này cho việc loan báo Tin Mừng. Bên cạnh việc sử dụng các phương tiện, thông điệp còn đánh giá chúng như là một “diễn đàn” (areopagus) quan trọng cho sứ mạng của Giáo Hội và văn hóa thời đại (số 37).

6. Huấn thị Aetatis Novae (22/2/1992, viết tắt AN) do Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội ban hành nhân kỷ niệm 20 năm Huấn thị Communio et progressio. Văn kiện suy nghĩ về những hậu quả mục vụ của những cuộc cách mạng kỹ nghệ, cách riêng về ảnh hưởng của các phương tiện Truyền Thông Xã Hội đối với các cá nhân và đời sống xã hội. Văn kiện mời gọi hợp tác trong công việc mục vụ với các chuyên gia về truyền thông.

7. Luân lý trong việc quảng cáo (22/2/1997). Văn kiện của Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội, lưu ý về những đóng góp tích cực của quảng cáo cũng như những vấn đề luân lý của lãnh vực này.

8. Luân lý trong ngành Truyền Thông Xã Hội (2/6/2000). Văn kiện của Hội đồng Giáo hoàng về Truyền Thông Xã Hội, suy tư về những mục tiêu mà các phương tiện này nhắm đến cũng như về việc sử dụng về phía người tiếp nhận. Văn kiện nhắm cách đặc biệt đến những người hoặc cơ quan có nhiệm vụ kiểm soát hoặc quyết định các cơ cấu của việc truyền thông. Vào đầu thiên niên kỷ mới, văn kiện nhìn thấy một “Xã hội Truyền thông” như một cuộc cách mạng văn hóa, khi con người không chỉ truyền thông và tiếp nhận thông tin, mà còn đồng hóa cuộc sống của mình với cảm nghiệm được truyền thông.Việc sử dụng các phương tiện này có thể gợi lên sự trắc ẩn và đồng cảm, hoặc tạo ra sự cô lập và vô cảm nơi những con người tiếp nhận, và họ thường chịu ảnh hưởng một cách vô thức.

9. Giáo Hội và Internet (28/2/2002). Văn kiện do Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội soạn thảo, bàn về Internet như là một hình thức đặc biệt của Truyền Thông Xã Hội. Internet đang góp phần vào việc những thay đổi cách mạng trong thương mại, giáo dục, chính trị, các tương quan quốc nội và quốc tế. Cần phải khuyến khích việc sử dụng đúng đắn để góp phần vào sự phát triển, công lý và hoà bình.

10. Luân lý trên Internet, được cơ quan nói trên ban hành vào cùng một ngày. Văn kiện này trình bày quan điểm của Giáo Hội về internet như là khởi điểm của sự tham dự vào cuộc đối thoại với các thành phần xã hội. Internet mang theo nhiều hiệu quả tích cực, nhưng cũng có thể gây nhiều tai hại. Vì thế cần có nguyên tắc để định hướng cho việc sử dụng, dựa trên tiêu chuẩn phát triển toàn diện của con người.

11. Tông thư Il rapido sviluppo (24/1/2005) của Thánh Gioan Phaolô II gửi những nhà hữu trách về Truyền Thông Xã Hội. Các tiến triển của các phương tiện Truyền Thông Xã Hội được nhìn như một dấu hiệu của sự tiến bộ xã hội, và đặt ra cho Giáo Hội những thách đố mới, làm thế nào đưa sứ điệp Tin Mừng vào “văn hóa mới” mà chúng tạo nên.

Đó là chưa kể đến những sứ điệp của Đức Thánh Cha được phát hành mỗi năm ( kể từ năm 1967 ) để cử hành ngày Truyền Thông Xã Hội ( Chúa Nhật sau lễ Thăng Thiên ) .
Nhìn lại những văn kiện trong vòng 80 năm ta thấy có sự tiến triển rõ ràng trong ý niệm về những phương tiện truyền thông. Từ thái độ dè dặt lúc đầu vì chỉ nhìn thấy ảnh hưởng tác động xấu đi ( thí dụ so với phim ảnh ), từ từ những văn kiện nhận ra giá trị tích cực của chúng. Từ đó những tín hữu cần được đào tạo và giảng dạy để biết sử dụng chúng trong việc thăng quan tiến chức cá thể và xã hội. Giáo Hội có nghĩa vụ và trách nhiệm phải tham gia vào việc truyền thông, không riêng gì để loan báo Tin Mừng cứu độ mà còn giúp thiết kế một nền văn hóa truyền thống nhân bản, tăng trưởng một hội đồng quả đât biết san sẻ những nguồn lợi niềm tin và vật chất .

B. Những đề tài chính trong Giáo Huấn Xã Hội của Giáo Hội về Thông tin và Truyền Thông Xã Hội

Những nguyên tắc quan trọng hoàn toàn có thể Tóm lại vào ba điểm : 1 ) Con người và truyền thông. 2 ) tin tức. 3 ) Quảng cáo

1. Con người và truyền thông

a /. Mục đích của truyền thông không chỉ là trao đổi thông tin, nhưng còn nhắm tới sự hiệp thông. Nguyên ủy của mọi sự truyền thông là Thiên Chúa : ngài đã thông ban sự sống dồi dào của Ba Ngôi cho quả đât, để mời gọi trái đất vào san sẻ tình yêu với Ngài. Đức Kitô là mẫu gương của sự truyền thông, chính bới bằng lời nói và hành vi, Người đã san sẻ tình yêu Thiên Chúa cho trái đất và quy tụ tổng thể thành một mái ấm gia đình. Nói cách khác, nhân vị và hội đồng quả đât là cứu cánh và tiêu chuẩn cho việc sử dụng những phương tiện Truyền Thông Xã Hội. Vì thế một phương tiện truyền thông được coi là tốt hoặc xấu, tùy theo nội dung, phương pháp sử dụng, những cơ cấu tổ chức của nó có thực sự ship hàng cho điều thiện của những nhân hay công ích hay không .
b /. Truyền thông là một quyền hạn và nghĩa vụ và trách nhiệm của con người tự do sống trong xã hội. Vì thế những phương tiện truyền thông cần tuân theo những nguyên tắc cơ bản ấy. Trước khi nói đến quyền hạn và nghĩa vụ và trách nhiệm tham gia vào những phương tiện truyền thông, cần nhấn mạnh vấn đề đến quyền hạn của mỗi nhân vị được tự do truyền thông : đây là một yêu sách của đời sống xã hội ( x. CP 8 ; 44-45 ) .
Cũng như những quyền lợi và nghĩa vụ khác, quyền tự do truyền thông có những số lượng giới hạn của nó, đó là : sự tôn trọng nhân phẩm và công ích. Nói cách đơn cử hơn, sự tự do truyền thông bị số lượng giới hạn bởi “ quyền của con người được biết thực sự ( điều này cũng gồm có thanh danh của những cá thể và của xã hội ) ; quyền có đời sống tư riêng ( bảo vệ sự thân thiện của những mái ấm gia đình và những cá thể ) ; quyền giữ bí hiểm do chức vụ hoặc công ích yên cầu ” ( x. CP 42 ). [ 9 ] Ngoài ra, quyền “ tự do truyền thông ” cũng hoàn toàn có thể hiểu về quyền được tham gia vào việc trao đổi thông tin, được truyền bá tư tưởng của mình ( x. CP 44-46 ) .
c ) Một tiêu chuẩn khác để lượng định sự sử dụng phương tiện Truyền Thông Xã Hội là phải xét xem nó có giúp con người tốt hơn, nghĩa là trưởng thành hơn về tâm linh, ý thức hơn về phẩm giá của mình, có nghĩa vụ và trách nhiệm hơn, cởi mở với tha nhân, đặc biệt quan trọng là với những người túng thiếu, tôn trọng những sự độc lạ văn hóa truyền thống ( x. Sách Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội số 415 ). Thực vậy, những phương tiện truyền thông cũng hoàn toàn có thể khiến cho người sử dụng trở nên khép kín, cô lập. Điều này giả thiết sự giáo dục tự chủ về phía người sử dụng ( Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số 2496 ) .

Các phương tiện Truyền Thông Xã Hội cung cấp cho ta rất nhiều thông tin, nhưng đôi khi chúng ta không ngờ rằng chúng là công cụ của một người hay một nhóm nào đó dùng để lèo lái dư luận, áp đặt ý kiến của họ lên đám đông.

2. Thông tin

Việc thông tin là một quyền hạn của con người và một dụng cụ thiết yếu cho sự chung sống tự do và tăng trưởng con người. Sự thông tin là một trong những công cụ chính yếu cho sự tham gia dân chủ. Không thể nào có sự tham gia nếu thiếu hiểu biết những yếu tố của hội đồng chính trị, những dữ kiện của yếu tố và những giải pháp được đề ra. Vì thế trong lãnh vực tế nhị này, cần bảo vệ một sự phong phú về thông tin và truyền thông, cũng như cần tạo ra những điều kiện kèm theo bình đẳng trong việc chiếm hữu và sử dụng những phương tiện truyền thông ( x. Sách Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội số 557 ) .
Trên trong thực tiễn, điều này gặp nhiều khó khăn vất vả do tại những nhóm chính trị, tài phiệt muốn làm chủ lãnh vực thông tin, để lèo lái theo khunh hướng có lợi cho họ, hoặc bưng bít thực sự ( x. Sách Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội số 416 ) .

3. Quảng cáo

Ngoài lãnh vực chính trị, những phương tiện truyền thông còn gây công dụng mạnh trong lãnh vực kinh tế tài chính, đặc biệt quan trọng nhờ sự quảng cáo. Điều này yên cầu người tiêu dùng cần phải sáng suốt, không để mình dễ bị mê hoặc bởi những hình ảnh bên ngoài mà không chăm sóc đến thực ra. Điều này giả thiết sự phong phú của những nguồn thông tin, để hoàn toàn có thể thâu thập những dữ kiện cách khách quan. ( x. Sách Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội số 347 ) .

III. MỘT SỐ NHẬN XÉT

Không thể nào chối bỏ những ích lợi của những phương tiện Truyền Thông Xã Hội trong việc thăng quan tiến chức cá thể và xã hội. Chúng cung ứng cho ta nhiều thông tin về xã hội, thu hẹp những khoảng chừng ngăn cách giữa những cá thể và dân tộc bản địa, đồng thời cũng hoàn toàn có thể giúp cho mỗi người trở thành dữ thế chủ động để truyền thông quan điểm của mình cho người khác .
Đồng thời, những văn kiện về Giáo Huấn Xã Hội của Giáo Hội cũng cho ta thấy những nguy khốn rủi ro đáng tiếc của những phương tiện này. Nói cách khác, Giáo Huấn Xã Hội của Giáo Hội mời gọi tất cả chúng ta hãy biết biện phân trong cách sử dụng chúng : nhìn nhận những giá trị tích cực và gạt bỏ những giá trị xấu đi .

A. Những giá trị cần thực hiện trong Truyền Thông Xã Hội

Các phương tiện Truyền Thông Xã Hội cần phải nhắm đến những giá trị sau đây :
– Con người là tiêu chuẩn cho việc sử dụng những phương tiện Truyền Thông Xã Hội. Nói cách khác, trong khi thi hành công tác làm việc truyền thông, cần phải chăm sóc đến phẩm giá con người. [ 10 ]
– Mục tiêu của việc TT là công ích : những chương trình nào giúp nâng cao đời sống con người là đã thực thi được sứ mạng của mình. Các phương tiện Truyền Thông Xã Hội hoàn toàn có thể giúp rất nhiều vào việc thiết kế xây dựng tình trực tiếp ( x. Sách Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội số 192 ; 561 ) .
– Việc truyền thông yên cầu trình độ và nghĩa vụ và trách nhiệm cả về phía người phát lẫn về phía người nhận : Người phát phải có năng lực trình độ nghề nghiệp ; người nhận cần phải có năng lực lý giải và phê bình những thông tin được gửi đến. Điều này giả thiết một sự giáo dục tương ứng ( x. Sách Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội số 562 ) .
– Luật cơ bản của truyền thông là tôn trọng thực sự. Các sự kiện loan đi phải tương thích với thực sự khách quan ( sự thành thực mà thôi thì chưa đủ ) .
– Duy trì cân đối giữa thông tin, đào tạo và giảng dạy và vui chơi. Các phương tiện Truyền Thông Xã Hội cần giữ sự quân bình phù hợp giữa những tin tức, giảng dạy và thư giãn giải trí, để tránh sự đơn điệu và lan rộng ra lãnh vực hoạt động giải trí .
– Các phương tiện Truyền Thông Xã Hội cần nhắm đến việc đào tạo và giảng dạy con người biết phê phán, ( trái ngược với khuynh hướng hiện thời là muốn cho con người thụ động, không phê phán ) .

B. Những nguy cơ phải tránh

Ngày nay sự truyền thông “ xã hội ” có rủi ro tiềm ẩn trở thành truyền thông “ đại chúng ”, do đó dễ mang theo những nguy cơ mà ta nên vạch trần :
– Khả năng lèo lái của những phương tiện Truyền Thông Xã Hội, muốn hướng dẫn dư luận theo một khuynh hướng nào đó ( về chính trị, kinh tế tài chính ), diệt trừ những lựa chọn riêng tư của mỗi người .
– Các phương tiện Truyền Thông Xã Hội muốn “ đúc khuôn ” một mẫu người tương thích với chính sách. Đối lại, những người theo dõi những chương trình dễ bị lôi cuốn bởi những “ mẫu đó ” và cũng muốn hành vi rập khuôn .
– Các phương tiện Truyền Thông Xã Hội dễ làm xô lệch phán đoán giá trị : cái gì được nói đến nhiều thì được coi là đúng, có giá trị ; cái gì mà không được nói đến là không có giá trị. Như vậy, tiêu chuẩn phân biệt tốt hoặc xấu không còn dựa theo chân lý khách quan, nhưng dựa theo sự ưng ý của hầu hết .
– Các phương tiện Truyền Thông Xã Hội cần sự hỗ trợ vốn của những nhóm tư bản ; những nhóm này thường chỉ nhằm mục đích đến doanh thu kinh tế tài chính chứ không chăm sóc đến những giá trị luân lý .
– Khi những phương tiện Truyền Thông Xã Hội nằm trong tay những nhóm kinh tế tài chính, thì tiềm năng được nhắm đến là tiêu thụ mẫu sản phẩm, với việc quảng cáo những mẫu hàng thời trang. Vô tình người theo dõi cũng bị hấp dẫn chạy theo thời trang mau đổi khác, không chú ý đến những giá trị vững chắc. Như tất cả chúng ta đã biết, để dễ lôi cuốn, sự quảng cáo thường nhắm gợi lên những sự thèm khát nằm trong bản năng con người : ăn no, mặc đẹp, tiền tài, quyền lực tối cao, … Điều này yên cầu một sự giáo dục để phân biệt những giá trị và những nhu yếu thực sự, đối lại với những nhu yếu hư ảo, giả tạo .

C. Việc thông tin

tin tức là một trường hợp đơn cử của ngành truyền thông. Thông tin là chuyển tải một điều gì mà người nhận chưa biết .
– Nhờ những kỹ thuật tân tiến, những thông tin được phân phối rất dồi dào phong phú và đa dạng. Con người sống vào thế kỷ XVI phải mất cả đời để biết được số lượng thông tin mà con người thời nay hoàn toàn có thể tích lũy trong vòng một ngày. Mặt trái của nó là : số lượng càng nhiều thì phẩm chất càng giảm ; người nhận được tin không có thời giờ để lựa chọn, nghiên cứu và phân tích, phê bình những tin tức lắm khi trái ngược nhau .
– Một đặc tính khác của việc thông tin thời nay là nhanh gọn, sốt dẻo. Mặt trái của nó là những tin tức ấy chưa được kiểm chứng xác đáng. Hơn thế nữa, vì muốn cạnh tranh đối đầu, những hãng tin không ngần ngại “ dựng ” lên những tin thiếu cơ sở .
– Việc thông tin hoàn toàn có thể bị lèo lái bằng những cách khác nhau. Chẳng hạn qua việc lọc tin ( chỉ loan những tin có lợi, và im bặt những tin bất lợi cho cơ quan loan tin ), qua việc nhìn nhận bản tin ( cho lên số 1 hoặc để ở cuối, tùy theo quan điểm của người loan tin ) .
– Người nhận tin cũng vô tình bị lèo lái, khi nhắm mắt tin theo những cơ quan loan tin nổi tiếng ( thực sự dựa theo người phát tin, – mặc dầu họ nói bậy -, chứ không theo thực chất của sứ điệp ). Người nhận tin cũng không hề ngờ rằng hầu hết những tin tức đều nằm trong tay của một chút ít cơ quan thông tấn quốc tế lớn. Nói cách khác, việc thông tin mang tính độc quyền, thiếu tính phong phú .

KẾT LUẬN

Trên đây là vài nét chính trong Giáo Huấn Xã Hội của Giáo Hội về những phương tiện truyền thông. Người viết bài ý thức rằng nó bị hạn chế, trước hết chính bới chỉ dựa trên vài văn kiện chính của Tòa Thánh, và bỏ lỡ nhiều văn kiện khác ( ví dụ điển hình như những sứ điệp nhân ngày quốc tế Truyền Thông Xã Hội ), mặt khác, giáo huấn của những vị giáo hoàng trong lãnh vực này không chỉ số lượng giới hạn vào những bản văn, mà còn được bộc lộ qua những cử chỉ và hành vi, ví dụ điển hình như phương pháp sử dụng những phương tiện này ( diễn văn truyền thanh, truyền hình, những cuộc phỏng vấn ), cũng như thái độ khi tiếp xúc với những cá thể và đoàn thể ( những tôn giáo ngoài Kitô giáo, những cơ quan chính trị của vương quốc và quốc tế, v.v … ) : đó là những hình thức trực tiếp của việc truyền thông .
Nói cho cùng, việc truyền thông nằm trong sứ mạng của Giáo Hội phải loan báo Tin Mừng cho mọi người. Và việc truyền thông đạt được tác dụng tối ưu khi tạo được sự hiệp thông giữa loài người với nhau và với tình yêu Thiên Chúa :
“ Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho bạn bè nữa, để chính bạn bè cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài. Những điều này, chúng tôi viết ra để niềm vui của tất cả chúng ta được nên toàn vẹn ” ( 1G a 1,3 – 4 ) .
[ 1 ] Sách Tóm Lược Học Thuyết do Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình xuất bản năm 2004
[ 2 ] Trong sách Một cái nhìn về Giáo huấn xã hội, Giám mục Nguyễn Thái Hợp đã dành chương 21 cho “ Đạo Đức Truyền Thông ” .
[ 3 ] “ Truyền thông xã hội ” và “ truyền thông đại chúng ” được dùng như đồng nghĩa tương quan. Tuy nhiên những văn kiện của Giáo Hội từ Vaticanô II thích dùng thuật ngữ “ truyền thông xã hội ” vì muốn nêu bật vai trò xã hội của chúng là tạo nên những đối sánh tương quan. Từ “ đại chúng ” ( mass ) nói lên một nhóm ô hợp, không có truyền thống .
[ 4 ] Vết tích còn lưu lại trong Bộ Giáo luật hiện hành, điều 823 – 832 .
[ 5 ] Những văn kiện này hoàn toàn có thể tìm trên địa chỉa internet của Hội đồng Giáo hoàng về Truyền Thông Xã Hội : http://www.vatican.va/roman_curia/pontifical_councils/pccs/index_it.htm
hoặc : http://www.pccs.va/index.php/it/documenti/documenti-del-pccs
[ 6 ] Nên biết là chính đức Piô XI đã khánh thành Radio Vatican ngày 12/11/1931 do chính ông Guglielmo Marconi phong cách thiết kế .
[ 7 ] Vấn đề Truyền Thông Xã Hội cũng được đề cập cách gián tiếp trong nhiều văn kiện khác, thí dụ : Hiến chế về phụng vụ số 20 ( Thánh lễ trên đài phát thanh và truyền hình ) ; Tuyên ngôn về giáo dục số 4 ; Sắc lệnh về tông đồ giáo dân số 8 ; Sắc lệnh về truyền giáo số 26 ; Sắc lệnh về trách nhiệm Giám mục số 13 ; Tuyên ngôn về tự do tín ngưỡng số 4 ; Hiến chế về Hội thánh trong quốc tế thời nay số 53-62 .

[8] Ngày 18/3/1986, Bộ Giáo dục công giáo đã ban hành một thông tư “Hướng dẫn việc đào tạo các linh mục tương lai về các phương tiện Truyền Thông Xã Hội”.

[ 9 ] Xem thêm Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo số 2491 – 2492 .
[ 10 ] Phẩm giá con người bao hàm những “ quyền hạn cơ bản ” của con người, ví dụ điển hình như : quyền được tôn trọng danh dự, quyền được tôn trọng đời sống riêng tư, quyền được biết chân lý và truyền bá chân lý, quyền phát biểu tư tưởng, quyền tự do lập hội .

Nguồn : Catechesis | Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP

Giáo Huấn Giáo Hội về các Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội

Bài viết liên quan
Hotline 24/7: O984.666.352
Alternate Text Gọi ngay